Print

Giải quyết việc làm cho NLĐ: Cần vượt qua thách thức

Thứ Sáu, 16 /10/2020 18:24

Mặc dù nhu cầu tuyển dụng đã dần gia tăng sau một thời gian dài im ắng nhưng công tác giải quyết việc làm, đảm bảo sinh kế bền vững cho NLĐ vẫn phải đối diện với nhiều thách thức. TS. Lee- Chang- Hee- Giám đốc Tổ chức Lao động Quốc tế tại Việt Nam đã có những chia sẻ về vấn đề này.

* PV: Báo cáo mới đây của ILO đã đưa ra những dự báo cập nhật cho thấy tình trạng mất việc làm và giảm số giờ làm việc là khá nghiêm trọng trên phạm vi toàn thế giới. Vậy tình hình của Việt Nam được nhận định và dự báo như thế nào, thưa ông?

- Ông Lee- Chang- Hee: Các quốc gia hiện đang phải trải qua một thời kỳ thực sự khó khăn. Theo những ước tính mới của ILO, các biện pháp phong tỏa một phần hoặc toàn diện đã ảnh hưởng tới 2,7 tỷ NLĐ, tức 81% lực lượng lao động toàn cầu. Bản báo cáo nhanh mới được ILO công bố tuần trước cho thấy số giờ làm việc trên thế giới giảm khoảng 6,7% trong quý II năm nay. Khoảng 50% lực lượng lao động toàn cầu làm việc trong các lĩnh vực như dịch vụ lưu trú và ăn uống, sản xuất, thương mại bán buôn và bán lẻ, bất động sản và các hoạt động kinh doanh, vận tải và giải trí… hiện đang chứng kiến sự sụt giảm nghiêm trọng về sản lượng, đi kèm với những nguy cơ cao phải sa thải lao động, giảm lương và giờ làm.

Vẫn còn quá sớm để đưa ra những dự báo chắc chắn đối với Việt Nam do chưa có số liệu phản ánh tác động toàn diện của đại dịch Covid-19 gây nên đối với DN và việc làm. Tuy nhiên, theo Bộ KH-ĐT, đến tháng 6/2020, Việt Nam có 30,8 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19. Trong đó, khoảng 17,6 triệu người bị giảm thu nhập do dịch bệnh, trong đó tập trung vào các ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống; sản xuất, thương mại; bán buôn, bán lẻ; các hoạt động kinh doanh, vận tải và giải trí… Đây là những lĩnh vực thâm dụng lao động, thường tuyển dụng NLĐ được trả lương thấp và trình độ kỹ năng thấp. Đây cũng là những lĩnh vực mà phụ nữ chiếm phần đông. Điều đó có nghĩa rằng khủng hoảng do đại dịch Covid-19 gây nên ảnh hưởng nặng nề hơn đối với NLĐ dễ bị tổn thương và lao động nữ.

* Vậy còn đối với những lao động mất việc do Covid-19 thì sao? Theo ông, chúng ta cần phải có giải pháp gì cho nhóm lao động này?

- Chúng ta vẫn chưa biết được chính xác mức độ khủng hoảng việc làm do chưa có kết quả điều tra lao động việc làm mới nhất tại thời điểm này. Nhưng chắc chắn đang phải đối diện với một cuộc khủng hoảng việc làm lớn mà tất cả mọi thành phần, không chỉ có Chính phủ mà cả DN, công đoàn và NLĐ phải phối hợp với nhau để giảm thiểu những tác động do khủng hoảng gây nên.

Các DN khác nhau thì lại có những cái khó khác nhau. Có những DN không thể tồn tại được do năng suất và khả năng cạnh tranh thấp dù có xảy ra khủng hoảng do Covid-19 hay không. Nhưng cũng có những DN khỏe mạnh trong điều kiện bình thường và có thể tồn tại lâu nếu nhận được sự hỗ trợ khi khủng hoảng nhằm nút lại lỗ hổng về tiền mặt, nguyên liệu thô và sự sụt giảm đột ngột trong nhu cầu và đơn hàng. Điều đó có nghĩa là hỗ trợ của Chính phủ cần nhắm tới các DN có triển vọng tích cực do hoạt động năng suất và đổi mới sáng tạo nhưng phải đối mặt với khủng hoảng tạm thời. Chính phủ nên đưa các DN này vào diện đối tượng mục tiêu của các gói hỗ trợ.

Chính phủ cũng nên hướng sự hỗ trợ tới các DN nỗ lực nhất trong việc giữ NLĐ và giảm thiểu mức độ sa thải bằng các biện pháp điều chỉnh thời giờ làm việc, chia sẻ công việc, đào tạo tại chỗ, giảm lương có sự tham khảo ý kiến của công đoàn và NLĐ. Như vậy sẽ khuyến khích DN nỗ lực hết mình trong việc giữ NLĐ và giảm thiểu mức độ sa thải, từ đó làm chậm quá trình sa thải, giảm thiểu cú sốc đối với xã hội mà khủng hoảng gây nên trong khi vẫn duy trì được năng suất của NLĐ cho công cuộc phục hồi nhanh hơn hậu Covid-19.

* Theo ông, những nhóm đối tượng nào trong thị trường lao động Việt Nam được xét là nhóm dễ bị tổn thương nhất trong tình hình hiện nay?

- Các nhóm dễ bị tổn thương nhất gồm có NLĐ làm công việc phi chính thức, lao động di cư và phụ nữ. Nhu cầu của họ cần phải được coi là vấn đề ưu tiên và cấp bách cần giải quyết. Mặc dù tỷ lệ phi chính thức ở Việt Nam đã giảm, hơn 70% dân số có việc làm (bao gồm cả các việc làm nông nghiệp) vẫn đang làm các công việc phi chính thức. Phần lớn những lao động này không được hưởng các hình thức bảo vệ cơ bản như khi làm những công việc chính thức, cụ thể là chế độ bảo vệ thu nhập, nghỉ ốm và chăm sóc y tế. Trong cuộc khủng hoảng Covid-19, họ có thể buộc phải tiếp tục làm việc hay không muốn tự cách ly khi cần, như vậy, họ tự đặt sức khỏe của bản thân vào tình thế nguy hiểm và có nguy cơ lây nhiễm cho thêm nhiều người.

Trong khi đó, lao động di cư trong nước, lực lượng chiếm 13,6% tổng dân số, thường làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức không có hợp đồng làm việc và không được tiếp cận với các chế độ bảo trợ xã hội. Họ cũng thường làm việc trong những lĩnh vực bị khủng hoảng việc làm nặng nề nhất. Bên cạnh đó, phụ nữ là đối tượng phải chịu gánh nặng của cuộc khủng hoảng lần này. Bốn lĩnh vực ILO xác định có nguy cơ bị ảnh hưởng lớn nhất là dịch vụ lưu trú và ăn uống, sản xuất, thương mại bán buôn và bán lẻ, bất động sản và hoạt động kinh doanh hiện đang sử dụng 44,1% lao động nữ ở Việt Nam.

* Ông có khuyến nghị nào về một khung chính sách việc làm hiệu quả để đối phó với những tác động của đại dịch không?

- Tôi đánh giá cao việc Việt Nam đã đưa ra và triển khai các gói chính sách kích thích nền kinh tế, hỗ trợ DN, việc làm và thu nhập. Gói hỗ trợ của Chính phủ nhìn chung phù hợp với những khuyến nghị ILO đã đưa ra ở cấp độ toàn cầu. Khung chính sách đó sẽ giúp tăng cường khả năng hồi phục hậu Covid-19 bằng việc giảm thiểu những tác động tiêu cực lên con người cũng như tiềm năng phát triển kinh tế của tương lai. Tuy nhiên, có 3 điểm tôi muốn nhấn mạnh cụ thể:

Thứ nhất, DN nhiều khả năng sẽ phải cho thêm nhiều NLĐ nghỉ việc- điều mà chúng ta đã bắt đầu nhìn thấy. Nếu không có biện pháp kiềm chế, điều này sẽ làm trầm trọng cuộc khủng hoảng xã hội, dẫn tới hút cả hệ thống đi xuống. Điều quan trọng cần làm là tập trung duy trì việc làm, bằng cách hướng những hỗ trợ của Chính phủ tới những DN có thực hiện các biện pháp để giữ NLĐ và bảo vệ sức khỏe của NLĐ bằng các hình thức phân công công việc đảm bảo sức khỏe. Điều này sẽ giúp làm chậm lại và giảm thiểu cú sốc từ khủng hoảng việc làm.

Thứ hai, cần giảm thiểu tác động của các biện pháp kiềm chế dịch bệnh tới các DN siêu nhỏ, hộ kinh doanh gia đình, nông hộ và khu vực nông nghiệp- nông thôn. Trong trường hợp sụt giảm mạnh nhu cầu của thế giới đối với hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam hoặc chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gẫy thì chính hàng triệu đơn vị kinh tế này sẽ mang lại sự hỗ trợ thay thế. Vì vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần tạo điều kiện để họ phát huy vai trò của mình trong giai đoạn quan trọng này, với sự hỗ trợ của Chính phủ.

Thứ ba, bảo trợ xã hội cần được tiếp tục đóng vai trò ưu tiên trong các gói hỗ trợ kích thích, bao gồm cả các gói hỗ trợ trong tương lai, để củng cố các biện pháp đã được thực hiện nhằm bảo vệ người dân và sinh kế của họ. Giờ chính là lúc chúng ta cần có cách tiếp cận cân bằng để đối phó với cuộc khủng hoảng kép này. Về phương diện sức khỏe cộng đồng, Việt Nam đã thể hiện là một trong những nước đi đầu trên thế giới. Đã đến lúc chứng tỏ rằng Việt Nam cũng xuất sắc như vậy trong giải quyết các thách thức về kinh tế, xã hội và thị trường lao động.

* Trân trọng cảm ơn ông!

Vũ Thu (Thực hiện)