PortalViewLongForm
E-magazine

Chính sách BHXH: Điểm tựa cho lao động nữ

Shared facebook

Các quy định của Luật BHXH 2014 nhằm hướng tới mở rộng diện bao phủ có tính bình đẳng, gần như không có sự phân biệt giữa lao động nam và nữ. Cụ thể, quy định về mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc với người làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 1- 3 tháng; người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn; hỗ trợ tiền đóng BHXH cho người tham gia BHXH tự nguyện… đều áp dụng chung cho cả lao động nam và lao động nữ nên cơ hội tham gia BHXH của cả 2 giới là như nhau.

Theo thống kê của BHXH Việt Nam, năm 2015 (trước khi Luật BHXH 2014 có hiệu lực), chỉ khoảng 24% lao động nữ tham gia BHXH, còn tỷ lệ này ở nam giới là 18,3%. Hiện nay, các chỉ số này đã ở mức cao hơn.

Cụ thể, năm 2022, xét trên tổng số lao động đang tham gia BHXH, số lao động nữ chiếm khoảng 52%- tương ứng với trên 9 triệu người. Khi xét ở nhóm tham gia BHXH bắt buộc, số lao động nữ tham gia cũng cao hơn nam giới (trên 51,1% người tham gia BHXH bắt buộc là nữ, tương ứng với hơn 8,2 triệu người). Với BHXH tự nguyện, tỷ lệ lao động nữ tham gia cao hơn khá đáng kể (khoảng 60%) so với lao động nam (gần 900.000 người tham gia BHXH tự nguyện là nữ).

Năm 2023, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn khách quan, nhưng số tham gia BHXH nói chung và nữ giới tham gia BHXH nói riêng vẫn tiếp tục duy trì đà phát triển (trên 10 triệu người, chiếm khoảng 55% tổng số người tham gia). Trong đó, ở nhóm tham gia BHXH bắt buộc, lao động nữ chiếm hơn 54,4% (8,9 triệu người); ở nhóm tham gia BHXH tự nguyện, lao động nữ chiếm 59,3% (trên 1,1 triệu trong tổng số 1,83 triệu người). 

Như vậy, kể từ khi thực hiện Luật BHXH 2014, cùng với nỗ lực mở rộng diện bao phủ BHXH, tỷ lệ lao động nữ tham gia BHXH ở nước ta đã gia tăng đáng kể. Đây là kết quả từ việc các quy định về đối tượng tham gia BHXH bắt buộc và đặc biệt là hỗ trợ tham gia BHXH tự nguyện từ NSNN được thực hiện.

Hiện nay, các định hướng sửa đổi Luật BHXH 2014 cũng đang được Chính phủ, Quốc hội thúc đẩy tích cực với các quy định mở rộng cơ hội tham gia BHXH cho lao động nữ như áp dụng BHXH bắt buộc với người hưởng chế độ phu quân/phu nhân tại cơ quan Việt Nam ở nước ngoài; chủ hộ kinh doanh thuộc diện đăng ký kinh doanh; người quản lý DN, người quản lý điều hành HTX không hưởng tiền lương; NLĐ làm việc không trọn thời gian. Theo dự báo, các quy định trên sẽ tác động tích cực đến việc tham gia BHXH của lao động nữ. Bởi lẽ, tại nước ta hiện nay, phụ nữ chiếm đa số trong các loại hình kinh doanh cá thể cũng như trong nhóm lao động phi chính thức (làm việc không trọn thời gian để đảm nhiệm chức năng “kép” vừa là NLĐ làm việc, tạo nguồn thu nhập vừa là người chịu trách nhiệm chính công việc gia đình).

Theo các quy định của Luật BHXH 2014, các quyền lợi BHXH của lao động nữ cũng đang được đảm bảo. Đơn cử như chính sách điều chỉnh lương hưu đối với lao động nữ bắt đầu hưởng lương hưu trong giai đoạn từ năm 2018 đến năm 2021 có thời gian đóng BHXH từ đủ 20 năm đến 29 năm 6 tháng. Theo đó, trong giai đoạn 2018-2021 đã có 79.058 người thuộc đối tượng điều chỉnh lương hưu; mức lương hưu bình quân trước khi điều chỉnh là 3.038.593 đồng/tháng và sau điều chỉnh là 3.174.404 đồng/tháng. Tổng số lao động nữ có thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu trong năm 2022 và có thời gian đóng BHXH từ đủ 20 năm đến 29 năm 6 tháng là 18.894 người với mức lương hưu bình quân là 3.210.023 đồng/tháng. Mức lương hưu này cao hơn mức lương hưu bình quân sau khi điều chỉnh theo Nghị định số 153/2018/NĐ-CP giai đoạn 2018-2021.

Bên cạnh đó, các chế độ ngắn hạn, nhất là chế độ thai sản cũng phát huy giá trị trong đảm bảo an sinh cho lao động nữ. Đối tượng thụ hưởng chế độ thai sản được quy định trong Luật BHXH năm 2014 bao gồm lao động nữ mang thai, lao động nữ sinh con, NLĐ nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi, lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ; NLĐ đặt vòng tránh thai, thực hiện các biện pháp triệt sản. Qua quá trình thực hiện, các quy định vừa nêu được đánh giá là cơ bản hợp lý, đã bao phủ được hầu hết các trường hợp cần được hỗ trợ. Mức hưởng chế độ thai sản được quy định bằng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc như trên là hợp lý và đảm bảo sự công bằng giữa các đối tượng thụ hưởng.

Trong các phiên bản dự thảo sửa đổi Luật BHXH 2014, các nội dung liên quan đến quyền lợi BHXH của lao động nữ đã được chú trọng nghiên cứu và tích cực hoàn thiện. Ở thời điểm hiện tại, một số nội dung dự kiến sửa đổi được dự báo sẽ góp phần để đảm bảo an sinh tốt hơn cho lao động nữ.

Tiêu biểu là việc bổ sung trợ cấp hưu trí xã hội để hình thành hệ thống BHXH đa tầng. Theo Dự thảo, công dân Việt Nam từ đủ 75 tuổi trở lên mà không có lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng khác thì sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội do NSNN đảm bảo. Quy định này nhằm tác động, đảm bảo thu nhập cho mọi người cao tuổi, đặc biệt là phụ nữ cao tuổi.

Cũng nhằm mục đích gia tăng số phụ nữ được hưởng lương hưu, Dự thảo còn đề xuất giảm điều kiện về số năm đóng BHXH tối thiểu để được hưởng lương hưu hằng tháng từ 20 năm xuống 15 năm. Về bản chất, quy định này có tác động đều đến cả nam và nữ giới, tuy nhiên sẽ có ảnh hưởng tích cực hơn với nữ giới, bởi các số liệu thống kê đã chỉ rõ: phụ nữ có quá trình đóng góp ngắn hơn nam giới. Ví dụ như ở khu vực tư nhân, lao động nữ ở độ tuổi từ 40- 53 (những người hiện đang đóng góp cho hệ thống BHXH) có thời gian đóng góp trung bình từ 9- 13 năm. Trong khi đó, thời gian đã đóng BHXH của nam giới có phần cao hơn, từ 10- 19 năm ở độ tuổi từ 41- 58 tuổi.

Với quyền lợi hưởng ở các chế độ ngắn hạn, những đề xuất sửa đổi trong chế độ thai sản cũng rất đáng chú ý. Đặc biệt là đề xuất bổ sung hưởng thai sản với người tham gia BHXH tự nguyện được kỳ vọng sẽ thu hút được sự tham gia của những NLĐ không có quan hệ lao động cũng như đảm bảo sự công bằng về chế độ thai sản giữa những lao động nữ làm việc ở khu chính thức và phi chính thức. Đồng thời, quy định này sẽ góp phần tăng cường bảo vệ sức khỏe của các bà mẹ và trẻ em khi các bà mẹ được hỗ trợ một phần chi phí, không phải cố gắng làm việc khi mang thai hoặc trở lại làm việc sớm ngay sau khi sinh con.

Ngoài ra, còn phải kể đến các đề xuất nhằm bổ sung quyền lợi hưởng các chế độ ốm đau, thai sản đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố (tham gia và thụ hưởng đầy đủ các chế độ BHXH bắt buộc). Hiện nay, nhóm này có khoảng 100.000 người đang tham gia BHXH bắt buộc nhưng chỉ được hưởng 2 chế độ là hưu trí và tử tuất. Việc bổ sung chế độ hưởng như trên là yêu cầu cần thiết, qua đó đảm bảo bình đẳng và công bằng trong thụ hưởng quyền lợi về BHXH đối với đối tượng người hoạt động không chuyên trách, đặc biệt là phụ nữ ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố.         

Bài: Minh Đức

Đồ hoạ: Thanh An


Viết bình luận
Bình luận mới