PortalViewLandingPage
 
Thứ Hai, 30 /06/2025 12:40
 

Phóng viên: Kỷ niệm Ngày BHYT Việt Nam - 1/7 năm nay cũng là một dấu mốc mới trong thực hiện chính sách BHYT: Luật số 51/2024/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT chính thức có hiệu lực. Nhân dịp này, ông có thể chia sẻ cùng bạn đọc khái quát quá trình hình thành, phát triển và những kết quả thực hiện BHYT ở nước ta?

Giám đốc BHXH Việt Nam Lê Hùng Sơn: Chính sách BHYT được chính thức triển khai ở nước ta từ năm 1992 theo Nghị định 299-HĐBT ngày 15/8/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Theo định hướng của Đảng, Nhà nước, chính sách, pháp luật BHYT từng bước được sửa đổi bổ sung, dần hoàn thiện đáp ứng yêu cầu thực tiễn qua các giai đoạn.

Việc hoàn thiện chính sách, pháp luật được thể hiện qua dấu mốc ban hành Luật BHYT năm 2008, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT năm 2014 và mới nhất là Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT năm 2024 (Luật số 51/2024/QH15). Từ quá trình hoàn thiện chính sách, pháp luật, công tác tổ chức thực hiện BHYT cũng dần đạt được những kết quả tích cực.

Vào năm 1995, số người tham gia BHYT chỉ có 7,1 triệu người, chiếm 9,6% dân số; năm 2002, sau khi hợp nhất bộ máy tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHYT, số người tham gia BHYT là 13,03 triệu, chiếm 16,5% dân số. Đến hết năm 2024, số người tham gia BHYT đạt 95,523 triệu người, chiếm 94,29% dân số và cơ bản đã đạt mục tiêu tại Nghị quyết 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương về Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.

Đặc biệt, quyền lợi BHYT của người dân ngày càng được mở rộng, góp phần quan trọng đảm bảo hệ thống an sinh xã hội của đất nước. Hiện nay, cả nước có gần 13.000 cơ sở KCB BHYT, bao gồm 2.897 cơ sở KCB và gần 10.000 trạm y tế xã tham gia BHYT. Số lượt người có thẻ BHYT đi KCB tăng liên tục qua các năm. Trong 15 năm qua, đã có trên 2.120 triệu lượt người KCB BHYT. Năm 2024, số lượt KCB BHYT đạt 183,6 triệu, tăng gần gấp đôi so với năm 2009.

Quỹ BHYT tăng trưởng nhanh và trở thành nguồn tài chính quan trọng trong chăm sóc sức khỏe cho người dân. Kể từ khi Luật BHYT có hiệu lực vào năm 2009, trong khoảng 15 năm qua, quỹ BHYT đã chi trả gần 1 triệu tỷ đồng cho KCB BHYT. Mức chi trả BHYT và danh mục thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật được quỹ BHYT chi trả ngày càng được mở rộng, đáp ứng nhu cầu KCB của người bệnh BHYT.

Luật BHYT sửa đổi năm 2014 tăng mức chi trả cho người nghèo (100%), cận nghèo (95%) và bảo trợ xã hội (100%). Năm 2023, chi bình quân cho người bệnh thuộc đối tượng hưu trí là 6,3 triệu đồng/người, người bệnh thuộc đối tượng bảo trợ xã hội 5 triệu đồng/người, trong khi mức đóng chỉ 1,3 triệu đồng/năm. Quỹ BHYT cũng chi trả cho thuốc điều trị ung thư, vật tư y tế đắt tiền và bệnh hiểm nghèo.

Từ năm 2016, người tham gia BHYT có thể đến bất kỳ bệnh viện tuyến huyện nào để KCB và từ năm 2021, điều trị nội trú tại bất kỳ bệnh viện tuyến tỉnh nào trong cả nước đều được hưởng quyền lợi như đúng tuyến.

Theo Luật số 51/2024/QH15 ngày 27/11/2024, sửa đổi, bổ sung một số điều của luật BHYT, có hiệu lực từ ngày 1/1/2025, quy định mức hưởng BHYT khi thực hiện thông cấp khám bệnh, chữa bệnh BHYT theo hướng không phân biệt địa giới hành chính theo tỉnh, giữ ổn định tỷ lệ mức hưởng BHYT theo quy định của Luật hiện hành và mở rộng với một số trường hợp. Đồng thời, trong các trường hợp bệnh hiếm, bệnh hiểm nghèo... người bệnh được lên thẳng cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cấp chuyên sâu.

Năm 2025, BHXH Việt Nam đang đặt mục tiêu phấn đấu để tỷ lệ bao phủ BHYT đạt 95,2% dân số. Đây là cơ sở, nền tảng để chính sách BHYT tiếp tục phát huy vai trò là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, thiết thực góp phần đảm bảo ổn định đời sống của từng người dân. 

Phóng viên: Tỷ lệ bao phủ BHYT ở nước ta không ngừng tăng lên và đã đạt mốc BHYT toàn dân. Đây là một thành tựu rất đáng ghi nhận.Vậy trong bối cảnh hiện nay, công tác tổ chức thực hiện BHYT còn phải đối mặt với những khó khăn, thuận lợi gì, thưa ông?

Giám đốc BHXH Việt Nam Lê Hùng Sơn: So với các quốc gia khác, quá trình đạt ngưỡng bao phủ BHYT toàn dân (đạt bao phủ trên 90% dân số) ở nước ta ngắn hơn. Đây là thành tựu có được từ những thuận lợi cơ bản, đến từ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ; sự nỗ lực rất lớn trong công tác tổ chức thực hiện của ngành BHXH Việt Nam, sự vào cuộc của cấp ủy, chính quyền địa phương và cũng thể hiện được sự ưu việt trong chính sách BHYT của nước ta.

Có thể khẳng định rằng, chính sách BHYT đã được Đảng, Nhà nước quan tâm chỉ đạo từ quá trình hoàn thiện pháp luật cho đến đẩy mạnh chỉ đạo thực hiện. Các nhóm yếu thế như hộ nghèo, người có công, trẻ em dưới 6 tuổi… đã được quan tâm, được đóng BHYT từ ngân sách nhà nước.

Tại các địa phương, cấp ủy, chính quyền luôn quan tâm chỉ đạo thực hiện BHYT, đồng thời, tích cực xây dựng các cơ chế để hỗ trợ người dân tham gia BHYT (với nhóm hộ cận nghèo, người cao tuổi, học sinh, sinh viên, hộ nông lâm, ngư, diêm nghiệp có mức sống trung bình…). Theo thống kê năm 2024, đã có 62/63 tỉnh, thành đưa chỉ tiêu bao phủ BHYT vào chỉ tiêu phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương; 63/63 tỉnh, thành trích ngân sách hỗ trợ thêm cho người tham gia BHYT…

Bên cạnh đó là nỗ lực tuyên truyền, vận động của cơ quan BHXH bền bỉ trong nhiều năm qua. Cụ thể, số người tự đóng một phần và toàn phần do ngành BHXH Việt Nam tập trung tuyên truyền, vận động liên tục, bền bỉ trong suốt thời gian qua là 48,201 triệu người, chiếm khoảng 47,6% dân số.

Từ nền tảng bao phủ BHYT toàn dân, quyền lợi BHYT đã và đang không ngừng được mở rộng, thể hiện rõ qua các con số về lượt KCB cũng như số chi KCB BHYT liên tục gia tăng qua từng năm như đã nêu ở trên.

Tuy nhiên, quá trình thực hiện BHYT ở nước ta cũng đang đối mặt với không ít khó khăn nhất định.

Tỷ lệ bao phủ BHYT ở nước ta đã khá cao, tuy nhiên, vẫn còn tỷ lệ nhất định người dân chưa tham gia BHYT; còn khoảng 6%. Đây là nhóm thuộc diện khó vận động nhất. Ngoài ra, các chính sách đóng và hỗ trợ đóng BHYT cũng chưa có sự ổn định mang tính dài hạn, có sự thay đổi, dẫn đến những tác động giảm số người tham gia cục bộ ở từng địa phương.

Nhu cầu KCB BHYT của người dân cũng ngày càng gia tăng, cùng với xu hướng phát triển của các loại dịch vụ y tế hiện đại, thuốc đắt tiền, sự gia tăng mạnh của y tế tư nhân… dẫn đến những áp lực lớn cho công tác quản lý quỹ KCB BHYT. Trong bối cảnh mức đóng BHYT không thay đổi nhưng số chi BHYT ngày càng lớn, việc cân đối quỹ KCB trở thành bài toán khó.

Phóng viên: Với vai trò là cơ quan tổ chức thực hiện, BHXH Việt Nam sẽ có định hướng như thế nào để tiếp tục phát huy thành tựu BHYT toàn dân trong giai đoạn tiếp theo?

Giám đốc BHXH Việt Nam Lê Hùng Sơn: Như đã nhấn mạnh ở trên, nhu cầu KCB BHYT của người dân sẽ ngày càng tăng; cơ cấu bệnh tật cũng sẽ phức tạp hơn, gia tăng các loại bệnh mạn tính trong bối cảnh già hóa dân số.

Trong bối cảnh đó, cùng với chủ trương “miễn viện phí” và nâng cao chất lượng KCB của Tổng Bí thư và Trung ương Đảng, chính sách BHYT phải có yếu tố vượt trội, là giải pháp hữu hiệu triển khai thành công chủ trương trên, thông qua đảm bảo nguồn lực quan trọng gắn với cơ chế quản lý minh bạch, hiệu quả để phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe Nhân dân.

BHXH Việt Nam sẽ tiếp tục phát huy vai trò, tiếp tục tích cực tham gia nghiên cứu, đề xuất để hoàn thiện chính sách, pháp luật BHYT phù hợp với yêu cầu từ thực tiễn. Trước mắt, tiếp tục chủ động tham mưu với Bộ Tài chính và cấp có thẩm quyền xây dựng hệ thống các văn bản hướng dẫn thực hiện hiệu quả Luật BHYT.

Cùng với đó, đúc kết các bài học kinh nghiệm, nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác tuyên truyền vận động người dân tham gia BHYT, giữ vững và tăng tỷ lệ bao phủ BHYT, đạt các mục tiêu BHYT toàn dân được Đảng, Nhà nước giao trong năm 2025, cũng như trong giai đoạn tiếp theo.

Tiếp tục hiện đại hóa trong công tác thanh toán, quản lý giám định BHYT; ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, khai thác hiệu quả nguồn dữ liệu KCB BHYT… qua đó, tối ưu hóa chi phí KCB BHYT. Một mặt, đảm bảo tốt hơn quyền lợi BHYT của người dân; mặt khác, kiểm soát, ngăn chặn kịp thời các hành vi cố tình trục lợi BHYT.

Tuy nhiên, khó khăn, áp lực là không hề nhỏ. BHXH Việt Nam mong muốn cấp ủy, chính quyền các địa phương, nhất là cấp cơ sở (xã, phường) tiếp tục quan tâm chỉ đạo quá trình tổ chức thực hiện BHYT; tiếp tục duy trì và nâng cao hiệu quả các cơ chế hỗ trợ người dân tham gia BHYT, đảm bảo tỷ lệ bao phủ BHYT đạt bền vững.

Các Bộ, ngành chú trọng phối hợp, nhất là Ngành Y tế, tiếp tục quan tâm xây dựng, hoàn thiện chính sách pháp luật BHYT, đảm bảo thực hiện hiệu quả Luật BHYT; chỉ đạo các giải pháp nâng cao hiệu quả KCB tại cơ sở y tế, qua đó đảm bảo tốt hơn quyền lợi BHYT của người dân. Đây cũng là giải pháp quan trọng để tăng tính hấp dẫn của chính sách BHYT, để người dân tin tưởng và tham gia BHYT một cách chủ động hơn. 

Phóng viên: Thực hiện chủ trương tổ chức sắp xếp tin gọn bộ máy, ngành BHXH Việt Nam đã và đang được xây dựng hoạt động theo mô hình mới, ông có thể chia sẻ cụ thể hơn về quá trình và những kết quả bước đầu?

Giám đốc BHXH Việt Nam Lê Hùng Sơn: Đây là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước đã và đang được các cấp, các ngành quyết liệt thực hiện. BHXH Việt Nam cũng đang triển khai rất tích cực theo đúng định hướng của Trung ương, Chính phủ và chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Tài chính.

Trước đó, thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, BHXH Việt Nam đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đổi mới bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu quả theo Quyết định số 856/QĐ-TTg ngày 10/7/2019.

Thực hiện yêu cầu mới từ Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII về sắp xếp bộ máy hệ thống chính trị, BHXH Việt Nam nghiêm túc thực hiện với quyết tâm cao, hành động quyết liệt để tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống BHXH Việt Nam tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, theo đúng chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và Bộ Tài chính.

Mục tiêu là tiếp tục sắp xếp, tổ chức bộ máy theo hướng “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả”, với nguyên tắc “một cơ quan, đơn vị thực hiện nhiều việc, một việc chỉ giao một đơn vị chủ trì và chịu trách nhiệm chính”; giảm cấp trung gian, đồng thời, khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực và địa bàn.

Cụ thể hơn, về tổ chức sắp xếp tin gọn bộ máy, đã có 4 Nghị quyết của Ban Cán sự Đảng BHXH Việt Nam; 7 Nghị quyết của Ban Thường vụ Đảng ủy cơ quan BHXH Việt Nam và 1 Nghị quyết liên tịch Ban Lãnh đạo và Ban Thường vụ Đảng ủy cơ quan BHXH Việt Nam được ban hành.

Trên cơ sở đó, đã thống nhất chủ trương, tiêu chí sắp xếp, cơ cấu lại 63 BHXH cấp tỉnh thành 34 BHXH khu vực; thống nhất tiêu chí, sắp xếp cơ cấu lại BHXH cấp huyện thành BHXH liên huyện; ban hành hướng dẫn về tiêu chí rõ ràng, cụ thể và đề xuất nhân sự sắp xếp, bố trí lãnh đạo quản lý cấp Trưởng, cấp Phó, Kế toán trưởng tại các đơn vị.

Kết quả thực hiện đến nay, ở cấp Trung ương từ 21 đầu mối còn 14 đầu mối (giảm 7 đơn vị, tương đương 33%); cấp tỉnh từ 63 đầu mối còn 34 đầu mối, phù hợp với chủ trương sắp xếp chính quyền địa phương 2 cấp (giảm 29 đơn vị, tương đương 53,9%);

Ở cấp cơ sở, từ 634 đầu mối còn 350 đầu mối, giảm 284 đơn vị, tương đương 44,8% (không tổ chức Tổ nghiệp vụ tại cấp cơ sở, giảm 147 Tổ nghiệp vụ).

Sau khi sắp xếp, tinh gọn bộ máy, toàn hệ thống BHXH Việt Nam giảm từ 1.464 đơn vị xuống 747 đơn vị đầu mối, giảm 717 đơn vị (tương ứng 49%).

Trong quá trình tổ chức, sắp xếp bộ máy theo mô hình mới, BHXH Việt Nam luôn duy trì đảm bảo tốt việc tổ chức thực hiện BHXH, BHYT, tăng cường cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân, không để gián đoạn các quyền lợi BHXH, BHYT của người dân. Tinh thần này sẽ tiếp tục được phát huy mạnh mẽ trong thời gian tới.

Phóng viên: Xin được cảm ơn những chia sẻ của ông!


Viết bình luận