Ngày 16/2/1995, Bảo hiểm xã hội Việt Nam được thành lập - đây là dấu mốc có ý nghĩa chiến lược trong tiến trình xây dựng hệ thống an sinh hiện đại tại Việt Nam. Với chức năng tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp - những trụ cột quan trọng của mạng lưới an sinh xã hội, ngành Bảo hiểm xã hội đã vượt qua những bước đi ban đầu đầy khó khăn, để trở thành một cấu phần không thể thiếu trong hệ thống an sinh xã hội.
Hơn 30 năm ấy không đơn thuần là hành trình của kỹ thuật tổ chức, quản lý hay vận hành nguồn quỹ, mà còn là quá trình tạo dựng nên một hệ thống lấy con người làm gốc, đặt sự sống, sức khỏe và cuộc sống an toàn của người dân vào trung tâm của mọi quyết định. Từ những ngày đầu còn khiêm tốn về quy mô và kinh nghiệm, đến nay, hệ thống tổ chức của ngành Bảo hiểm xã hội đã phủ khắp 63 tỉnh, thành phố và hơn 700 quận, huyện. Cùng với sự phát triển của đất nước, mạng lưới an sinh cũng lớn dần về cả chiều rộng và chiều sâu. Năm 1995, cả nước chỉ khoảng 2,276 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội, thì đến cuối năm 2024 đã tăng lên 20 triệu người.
Chính sách bảo hiểm y tế vốn từng xa lạ với phần đông người dân, nay đã chạm tới hơn 94% dân số, tiến gần mục tiêu bao phủ toàn dân. Còn bảo hiểm thất nghiệp - chính sách tương đối mới (ra đời năm 2009) cũng đã trở thành điểm tựa quan trọng cho hơn 16 triệu người lao động vào năm 2024, đặc biệt hữu hiệu trong các giai đoạn biến động kinh tế và khủng hoảng dịch bệnh COVID-19.
Không chỉ mở rộng về diện bao phủ, hệ thống bảo hiểm xã hội còn ghi nhận những chuyển biến tích cực về hiệu quả và quy mô vận hành. Năm 2024, tổng số thu các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp vượt 552 nghìn tỷ đồng - một con số cho thấy sức bền tài chính của hệ thống an sinh. Từ nguồn lực ấy, ngành Bảo hiểm xã hội đã chi trả hàng chục triệu lượt hưởng các chế độ: Hơn 3,3 triệu người đang nhận lương hưu và trợ cấp hằng tháng; hơn 186 triệu lượt khám chữa bệnh được thanh toán qua nguồn quỹ bảo hiểm y tế; hàng triệu người lao động nhận chế độ trợ cấp thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, mất việc làm.
Những con số tưởng như chỉ là thống kê, nhưng ẩn sau đó là hàng triệu cuộc sống được sẻ chia, nâng đỡ và bảo vệ - một minh chứng rõ ràng cho sức sống bền bỉ và chiều sâu nhân văn của chính sách an sinh. Và, hơn cả những con số ấy, điều làm nên vị thế của ngành Bảo hiểm xã hội còn là sự chuyển biến về tư duy: Ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã và đang chuyển mình theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, phản ánh đúng tinh thần của một nhà nước lấy dân làm gốc.
Sự thay đổi ấy không diễn ra một sớm một chiều. Đó là kết quả của một quá trình liên tục cải cách, đổi mới cách nghĩ, cách làm, gắn bó chặt chẽ với nhu cầu thực tế của người dân. Mô hình quản lý được điều chỉnh để phù hợp với sự vận động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách được hoàn thiện theo hướng bao trùm và linh hoạt hơn, chú trọng đến những nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương. Tác phong công vụ từng bước được chuyên nghiệp hóa, lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo đánh giá hiệu quả.
Ở góc độ con người, đội ngũ cán bộ bảo hiểm xã hội từ trung ương đến cơ sở- chính là lực lượng lặng lẽ, nhưng bền bỉ tạo dựng niềm tin của nhân dân vào chính sách an sinh. Dù không đứng dưới ánh đèn sân khấu, họ vẫn có mặt ở mọi miền đất nước: Từ những khu vực phố thị cho đến những bản, làng ở vùng sâu, vùng xa, miền núi cao hay hải đảo; từ những địa bàn bị ảnh hưởng bởi thiên tai bão lũ cho đến các khu công nghiệp tập trung đông lao động nhập cư.
Không đơn thuần thực hiện nghiệp vụ, họ còn là người truyền thông chính sách, kết nối các nhóm yếu thế với các quyền lợi hợp pháp của mình, giúp lan tỏa tinh thần “tương thân tương ái” bằng một cơ chế pháp lý thay vì lòng trắc ẩn đơn thuần.
Trong giai đoạn cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số quốc gia, ngành Bảo hiểm xã hội đã xác định rõ vai trò tiên phong trong việc hiện đại hóa toàn diện, để phục vụ tốt hơn, nhanh hơn và chính xác hơn. Chuyển đổi số không còn là lựa chọn, mà là điều kiện sống còn của một hệ thống an sinh hiện đại. Minh chứng là, ngành Bảo hiểm xã hội đã xây dựng thành công kho dữ liệu an sinh xã hội tập trung, hoàn thiện việc liên thông với hơn 13 bộ, ngành và 63 tỉnh, thành phố; xử lý hàng trăm triệu lượt giao dịch điện tử mỗi năm.
Đến nay, toàn bộ 25 thủ tục hành chính đã được số hóa, trong đó 82% là dịch vụ công trực tuyến toàn trình. Tính riêng trong năm 2024, khoảng 100 triệu hồ sơ được xử lý qua hệ thống điện tử; 621.000 tổ chức và 35,6 triệu tài khoản cá nhân thực hiện giao dịch điện tử; 13.000 cơ sở khám chữa bệnh đã liên thông dữ liệu với BHXH.
Việc tích hợp dịch vụ công lên Cổng Dịch vụ công quốc gia, kết nối với ứng dụng VssID và định danh điện tử VNeID đã giúp thay đổi cơ bản cách người dân tiếp cận chính sách. Thay vì phải tìm đến cơ quan bảo hiểm xã hội xếp hàng chờ đợi, nay người dân đã có thể tra cứu, đăng ký, theo dõi quyền lợi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ngay trên điện thoại thông minh. Người bệnh không cần giấy tờ rườm rà, chỉ cần một mã định danh để đi khám chữa bệnh. Người dân nông thôn có thể tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện qua vài thao tác đơn giản. Doanh nghiệp có thể làm thủ tục cho hàng trăm người lao động cùng lúc chỉ với một giao diện điện tử… Đây không chỉ là bước tiến về công nghệ, mà còn là biểu hiện rõ nét của tư duy phục vụ: Lấy người dân làm trung tâm, lấy sự tiện lợi, dễ tiếp cận làm tiêu chí tối ưu.
Tuy nhiên, hành trình này cũng phải đối mặt không ít thách thức. Đáng chú ý như: Độ bao phủ bảo hiểm xã hội ở khu vực phi chính thức còn thấp, tâm lý trông chờ hỗ trợ vẫn phổ biến ở nhiều địa phương. Tình trạng trốn đóng, nợ đọng bảo hiểm xã hội vẫn tiếp diễn, làm ảnh hưởng đến quyền lợi lâu dài của người lao động. Sự thay đổi chính sách đôi khi chưa theo kịp tốc độ chuyển động của xã hội… Thực tiễn này đòi hỏi ngành Bảo hiểm xã hội không chỉ có năng lực thực thi, mà còn cần có tư duy chính sách linh hoạt và sự nhạy bén trong quản lý rủi ro.
Chia sẻ về những thành quả mà ngành Bảo hiểm xã hội đạt được, ông Lê Hùng Sơn - Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam khẳng định: “Chính sách an sinh xã hội không chỉ là trách nhiệm, mà còn là sự cam kết chính trị của Đảng và Nhà nước với nhân dân. Mỗi cuốn sổ bảo hiểm xã hội, mỗi tấm thẻ bảo hiểm y tế không đơn thuần là một loại giấy tờ, mà là biểu tượng cho sự đồng hành, sự đảm bảo rằng trong mọi biến động của cuộc sống, người dân luôn có điểm tựa vững chắc. Đó là một thứ văn hóa - văn hóa an sinh, mà các thế hệ viên chức, người lao động ngành Bảo hiểm xã hội đã kiên trì gây dựng suốt 30 năm qua…”.
Lời khẳng định trên không mang tính khẩu hiệu, bởi phía sau mỗi con số, mỗi chỉ tiêu, đều là những câu chuyện rất thật. Một cụ bà người Mông ở Điện Biên ôm chặt cuốn sổ lương hưu - phần thưởng cho 13 năm đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện bằng tiền bán thổ cẩm. Một người bệnh ung thư ở miền Tây được quỹ bảo hiểm y tế chi trả viện phí hơn 400 triệu đồng - nếu như không có chính sách hỗ trợ, cả gia đình có thể lâm vào cảnh nhà chả còn để ở. Một công nhân bị tai nạn lao động được hỗ trợ kịp thời không chỉ bằng tiền, mà còn bằng sự quan tâm và tái hòa nhập vào thị trường lao động… Tất cả những điều ấy góp phần tạo dựng nên niềm tin - vốn là “tài sản” quý nhất mà chính sách an sinh xã hội đem lại.
Về định hướng tương lai, ngành Bảo hiểm xã hội xác định cần tạo ra những bước đột phá ở cả 3 trụ cột: Mở rộng diện bao phủ - nhất là với lao động phi chính thức; phát triển chính sách linh hoạt hơn, phù hợp hơn; nâng cao chất lượng phục vụ, hiện đại hóa toàn diện hạ tầng số. Bên cạnh đó, là các nhiệm vụ chiến lược như: Sửa đổi Luật bảo hiểm xã hội, Luật bảo hiểm y tế theo hướng bao trùm, công bằng, bền vững; ứng dụng dữ liệu lớn (big data) để phân tích, dự báo rủi ro và điều chỉnh chính sách kịp thời; tăng cường hợp tác quốc tế để học hỏi mô hình an sinh tiên tiến.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cũng từng khẳng định: “Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là hai trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cuộc sống ổn định và an toàn cho người dân”. Để chính sách được triển khai hiệu quả, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng yêu cầu, trong thời gian tới, Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần bám sát chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, cũng như các chỉ đạo Bộ Tài chính trong triển khai thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp. Qua đó, nhằm bảo đảm chính sách chế độ cho nhân dân, bảo đảm độ bao phủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
Cùng với đó, quản lý và sử dụng hiệu quả, an toàn, minh bạch quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; phục vụ tốt nhất việc chi trả các chế độ cho người tham gia và thụ hưởng chính sách; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí trong quản lý và sử dụng quỹ, tài sản công. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hoá theo hướng công khai, minh bạch, với tinh thần nhanh nhất, đơn giản nhất, đầy đủ nhất, ứng dụng mạnh mẽ sâu rộng công nghệ thông tin trong mọi hoạt động của hệ thống, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân khi tham gia giao dịch với cơ quan bảo hiểm xã hội.
“Lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ, tăng cường công tác đối thoại, lắng nghe ý kiến, phản ánh kịp thời các kiến nghị của người dân, doanh nghiệp; xây dựng hình ảnh cơ quan bảo hiểm xã hội gần gũi, thân thiện, tận tâm, chuyên nghiệp, đáng tin cậy trong lòng người dân cũng như cộng đồng doanh nghiệp. Chủ động phối hợp chặt chẽ với các đơn vị thuộc Bộ Tài chính trong triển khai nhiệm vụ, kịp thời tháo gỡ vướng mắc, tập trung hoàn thành các nhiệm vụ chính trị được giao”, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng nhấn mạnh.
Hơn 30 năm - thời gian đủ dài để nhìn lại, đánh giá và khẳng định cho những thành quả mà ngành Bảo hiểm xã hội đạt được. Từ những bước đi đầu tiên đầy khó khăn, ngành Bảo hiểm xã hội đã xây dựng nên một hệ thống an sinh đa tầng, gắn bó với đời sống hàng chục triệu người dân Việt Nam. Không chỉ dừng lại ở vai trò một cơ quan nhà nước, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đang dần trở thành một phần trong nếp sống - nơi mà niềm tin, trách nhiệm, sự tử tế và tinh thần nhân văn cùng tồn tại trong từng chính sách.
Hành trình lan tỏa văn hóa an sinh xã hội chưa và không bao giờ dừng lại. Bởi, khát vọng an sinh vẫn luôn cháy bỏng trong tâm nguyện của những người làm chính sách - đó là cùng nhau xây dựng một xã hội công bằng, nơi ai cũng được chăm lo, được bảo vệ và được sống một cuộc đời an toàn, có giá trị. Trong hành trình đó, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế sẽ không chỉ là một chính sách đơn thuần, mà là một phần hồn cốt của một đất nước biết yêu thương và biết giữ lời hứa với người dân của mình.
Thực hiện và trình bày: Ngô Hùng