Một số loại thuốc kháng sinh mới

Thứ Năm, 26 /10/2023 20:04

Kháng sinh là một nhóm thuốc không thể thiếu trong điều trị. Tại một số BV, khảo sát về sử dụng thuốc kháng sinh cho thấy, tỷ lệ tiền thuốc kháng sinh chiếm một phần lớn trong kinh phí sử dụng thuốc (khoảng 22-25% tổng chi phí thuốc), trong đó nhóm betalactam chiếm trên 80%.

Việc sử dụng kháng sinh không đúng cách đã góp phần làm cho nhóm thuốc này ngày càng bị vi khuẩn kháng lại với tỷ lệ cao. Hiện nay, những tiến bộ trong tìm ra thuốc kháng sinh mới đã mang lại cho bác sĩ lâm sàng những lựa chọn thêm nữa để điều trị nhiễm khuẩn, kể cả các chủng vi khuẩn đã kháng trước đó.

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng cảnh báo, đến năm 2050, tình trạng kháng thuốc có thể là nguyên nhân gây tử vong cho 10 triệu người trên toàn cầu mỗi năm. Còn tại Việt Nam, tỷ lệ kháng kháng sinh chiếm khoảng 40%, đứng thứ 4 về tỷ lệ kháng thuốc ở các nước tại Châu Á-Thái Bình Dương.

Việc tìm ra những loại thuốc kháng sinh mới vô cùng tốn kém và cần phải có thời gian trong khi quỹ tên thuốc kháng sinh đã và đang sử dụng của chúng ta đang bị vi khuẩn đề kháng ngày càng nhiều. Tuy nhiên, với sự tiến bộ của công nghệ dược phẩm cùng với sự phát triển như vũ bão của trí tuệ nhân tạo AI (Artificial Intelligence), nhiều loại thuốc kháng sinh mới đã được đưa vào sử dụng trong lâm sàng.

Một số loại kháng sinh được phát triển trên nền tảng các thế hệ thuốc kháng sinh đã sử dụng trước đó. Thậm chí, nhiều khi người ta phải quay lại với những loại kháng sinh đã phát minh từ lâu nhưng bị hạn chế sử dụng vì độc tính và tác dụng phụ.

Một số thuốc kháng sinh mới đã được đưa vào sử dụng những năm gần đây như:

- Ceftolozane là cephalosporin thế hệ 5 thường dùng phối hợp với metronidazol, được chỉ định để điều trị các bệnh nhiễm trùng như: Nhiễm trùng ổ bụng, nhiễm trùng tiết niệu và viêm phổi mắc phải tại BV. Nó được đưa ra thị trường ở dạng phối hợp gồm 2 thành phần chính là ceftolozane và tazobactam. Ceftolozane ức chế tổng hợp thành tế bào vi khuẩn bằng cách liên kết với một hoặc nhiều protein liên kết penicillin (PBP). Nhờ đó, ức chế bước cuối cùng của quá trình tổng hợp peptidoglycan trong thành tế bào vi khuẩn. Tazobactam có thể liên kết cộng hóa trị với một số men beta-lactamase và ức chế hoạt tính của men beta-lactamase của vi khuẩn, nhờ đó tăng cường độ bền và hoạt tính của ceftolozane.

- Ceftazidim/avibactam là sản phẩm phối của một kháng sinh đã có từ lâu (ceftazidim) với một chất ức chế betalactamase mới (avibactam). Hoạt chất avibactam này giúp ceftazidim điều trị được các nhiễm khuẩn sinh beta-lactamase. Hiện nay, các chủng đề kháng carbapenem đang càng ngày càng tăng, phối hợp này thực sự đáng để cân nhắc trên lâm sàng khi lựa chọn kháng sinh. Avibactam có khả năng chống lại các vi khuẩn đã kháng carbapenem.

- Dalbavancin dùng để điều trị nhiễm trùng da do vi khuẩn staphylococcus aureus (bao gồm cả mẫn cảm methicillin và các chủng kháng methicillin) và streptococcus pyogenes. Đường dùng tiêm tĩnh mạch và có hiệu quả tương tự vancomycin là một kháng sinh đã biết trước đây. Thuốc chỉ nên sử dụng khi có bằng chứng về vi khuẩn nhạy cảm và chỉ dùng trong BV.

Oritavancin dùng điều trị bệnh nhân người lớn bị nhiễm trùng da và mô mềm do các chủng nhạy cảm của các vi sinh vật gram dương. Nó là một lipoglycopeptide có hoạt tính diệt khuẩn phụ thuộc vào nồng độ. Nó ức chế sinh tổng hợp thành tế bào bằng cách ức chế bước trùng hợp bằng cách liên kết với peptit gốc của tiền chất peptidoglycan, bằng cách ức chế liên kết chéo bằng cách liên kết với các đoạn cầu nối, và bằng cách phá vỡ tính toàn vẹn của màng vi khuẩn, dẫn đến chết tế bào. Tại các nhà thuốc có bán dạng thuốc bột đông khô pha tiêm 1200 mg/40ml hoặc 400mg/50ml. Đây là một kháng sinh mới chỉ được sử dụng khi có chỉ định của thầy thuốc và phải có các biện pháp đề phòng sốc phản vệ.

Đối với công nghệ sinh hóa dược, một số ví dụ trên cho thấy, việc phát minh ra một loại thuốc kháng sinh mới hoàn toàn thực sự còn ở chặng đường phía trước. Đa số các loại thuốc kháng sinh mới hiện nay đang sử dụng đều phải đi từ con đường nghiên cứu và phát triển các thế hệ mới của kháng sinh cũ, hoặc kết hợp với một chất ức chế vi khuẩn mới. Hy vọng trong tương lai, con người sẽ có thêm những loại thuốc kháng sinh mới với phổ kháng khuẩn cao và giá thành kinh tế hợp lý được đưa vào lâm sàng điều trị cho người bệnh.

Còn việc trước mắt của các thầy thuốc và cả cộng đồng là tuân thủ quy trình sử dụng kháng sinh, chỉ sử dụng khi có bằng chứng về nhiễm khuẩn, tuân thủ liều điều trị và tránh lạm dụng kháng sinh, tăng cường chiến lược phòng chống kháng thuốc kháng sinh do cơ quan chức năng đề ra.

ThS.Lê Quốc Thịnh