Kháng sinh Fosfomycin: Cần thận trọng khi sử dụng dạng thuốc tiêm
Mới đây, Cục Quản lý Dược có Công văn số 5986/QLD-ĐK ngày 7/6/2023 về việc thống nhất chỉ định của thuốc Fosfomycin. Đây là một kháng sinh đã được sử dụng tại Châu Âu trong nhiều thập kỷ để điều trị nhiễm khuẩn. Đối với dạng thuốc Fosfomycin truyền tĩnh mạch được chỉ định dùng trong trường hợp không thể sử dụng các kháng sinh khác hoặc các kháng sinh khác không có tác dụng.
Fosfomycin là một loại kháng sinh mới có cấu trúc hóa học không liên quan đến các kháng sinh đã biết khác. Đây là một loại thuốc diệt khuẩn phá vỡ sự tổng hợp của thành tế bào bằng cách ức chế Phosphenolpyruvate Synthetase và do đó gây trở ngại cho việc sản xuất Peptidoglycan. Ở Mỹ, thuốc này được dùng ở một dạng bột của Fosfomycin Tromethamine, được hòa tan trong nước và uống.
Các dạng truyền đường tĩnh mạch thường có ở Nhật Bản và Châu Âu. Đối với đường tiêm, liều điều trị ở Nhật Bản được khuyến cáo rất thấp. Sinh khả dụng của muối Tromethamine Fosfomycin khá thấp (khoảng 40%); do đó nồng độ huyết thanh thấp so với nồng độ ức chế tối thiểu (MICs). Vì lý do này, thuốc được sử dụng để điều trị viêm đường tiết niệu thấp không biến chứng, không phải viêm thận cấp.
Fosfomycin không liên kết với Protein huyết tương và phân phối rộng rãi vào các mô. Fosfomycin được bài tiết qua nước tiểu chủ yếu do lọc cầu thận mà không có sự chuyển đổi sinh học. Sau khi uống thuốc, nồng độ Urê vượt quá MICs của các mầm bệnh còn nhạy trong hơn 24 giờ.
Dạng thuốc tiêm tĩnh mạch của Fosfomycin chỉ nên dùng cho các nhiễm trùng nghiêm trọng như: Nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương, viêm tủy xương và viêm phổi. Khi được sử dụng để điều trị các nhiễm trùng này, nó thường được sử dụng kết hợp với các kháng sinh khác như Beta-lactams. Fosfomycin có hoạt lực tốt chống lại cả trực khuẩn Gram dương và Gram âm, bao gồm nhiều vi sinh vật kháng kháng sinh như: Staphylococcus Aureus, bao gồm cả S.Aureus kháng Methicillin (MRSA); Enterococcus sp, bao gồm cả Enterococci kháng Vancomycin; Enterobacterales (trước đây là Enterobacteriaceae), bao gồm Klebsiella Pneumoniae sinh men kháng Beta lactamase phổ rộng (ESBL) và kháng Carbapenem; Escherichia Coli, bao gồm kháng Fluoroquinolone E.Coli; Pseudomonas Aeruginosa, trong đó có tỷ lệ kháng thuốc biến đổi.
Có thể thấy, kháng sinh Fosfomycin được sử dụng để chống lại các chủng vi khuẩn đã kháng lại với khá nhiều các kháng sinh thông dụng đang dùng phổ biến hiện nay. Tuy nhiên, việc thống nhất liều điều trị và lựa chọn khi sử dụng cần có ý kiến của hội đồng dược lâm sàng tại các BV và chỉ sử dụng khi không còn sự lựa chọn nào khác.
Trong thực tế cũng có dạng thuốc Fosfomycin đường uống cho các trường hợp nhiễm trùng đường tiết niệu không biến chứng, như nhiễm khuẩn tiết niệu thấp do các mầm bệnh nhạy cảm gây ra như dạng bào chế ở Mỹ. Tuy nhiên, vì nó có phổ hoạt động rộng, Fosfomycin dạng thuốc dùng đường tĩnh mạch được sử dụng để điều trị nhiễm trùng với các vi sinh vật đa kháng ở các vị trí giải phẫu khác nhau.
Fosfomycin nói chung dung nạp tốt và có tỷ lệ tác dụng phụ thấp, bao gồm các triệu chứng tiêu hoá chủ yếu như buồn nôn, tiêu chảy... Đối với viêm đường tiết niệu không biến chứng ở phụ nữ, dùng một liều duy nhất của Fosfomycin Tromethamine 5,61g (tương đương với 3g Fosfomycin) hòa tan trong chất lỏng. Một đợt điều trị dài hơn có thể là cần thiết cho các bệnh nhiễm trùng tại các vị trí khác. Trên thị trường thuốc hiện đang có loại Fosfomycin Natri 30mg là dung dịch nhỏ tai được chỉ định trong khoa tai mũi họng để điều trị viêm tai giữa, viêm màng nhĩ, viêm tai ngoài.
Việc sử dụng kháng sinh này cần xem xét theo đặc thù vùng miền liên quan đến mô hình bệnh tật, tình hình sử dụng thực tế tại các BV, tình trạng kháng thuốc và theo hướng dẫn điều trị của Bộ Y tế. Đối với dạng dùng đường tiêm, cần tham khảo các tài liệu hướng dẫn của nhà sản xuất, đảm bảo an toàn, hiệu quả, hợp lý, tránh lạm dụng có thể dẫn đến kháng thuốc.
ThS.Lê Quốc Thịnh