Print

Cách nào để Việt Nam trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045?

Thứ Năm, 22 /02/2024 15:28

Ngày 22/2, tại Hà Nội, đã diễn ra Tọa đàm đối thoại chính sách “30 năm phát triển của Việt Nam: Nhìn lại quá khứ và ứng phó với thách thức mới”. Sự kiện do Trường Đại học Kinh tế Quốc dân tổ chức, với sự tham dự của lãnh đạo các bộ, ngành, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội.

Thông tin tại Tọa đàm, GS-TS.Phạm Hồng Chương- Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân nhấn mạnh, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã đặt mục tiêu đưa đất nước trở thành quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Để đạt được mục tiêu này, nền kinh tế sẽ phải tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm là 7% trong vòng 20 năm tới.

GS-TS.Phạm Hồng Chương cho biết thêm, Việt Nam cũng đặt mục tiêu tăng trưởng xanh và toàn diện hơn, cam kết giảm 30% lượng khí thải metan và chấm dứt nạn phá rừng vào năm 2030, đồng thời đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Đáng chú ý, từ nền kinh tế đóng và thay thế nhập khẩu, Việt Nam đã trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn nhất và định hướng xuất khẩu trên thế giới, chuyển từ nền kinh tế thu nhập thấp dựa vào nông nghiệp sang nền kinh tế có thu nhập trung bình.

Theo chuyên gia này, hiện nay có một số xu hướng lớn đang định hình tương lai của Việt Nam. Trong đó, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, công nghệ số, trí tuệ nhân tạo mang đến cơ hội nâng cao khả năng cạnh tranh và tính bền vững về kinh tế, chất lượng sản phẩm, dịch vụ và quy trình sản xuất. Tuy nhiên, xu hướng này cũng đồng thời đặt ra nhiều thách thức to lớn như: Gia tăng tình trạng thất nghiệp; thách thức về chính trị, xã hội, thể chế; các vấn đề về hạ tầng; rủi ro lớn hơn về an toàn, an ninh thông tin; rủi ro về cạnh tranh và tụt hậu.

Thách thức khác mà nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt là tình trạng dân số đang già đi nhanh chóng và mức lương đang tăng lên; thương mại toàn cầu đang suy giảm và các DN phải tuân thủ các yêu cầu nghiêm ngặt hơn về môi trường và xã hội. Bên cạnh đó, suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu đang gia tăng; đại dịch Covid-19, các bất ổn, xung đột chính trị tại nhiều nơi trên thế giới đang đặt ra những thách thức chưa từng có có thể làm suy yếu tiến trình hướng tới các mục tiêu phát triển…

Theo đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu kinh tế, tăng trưởng Việt Nam có được trong thời gian qua phần lớn là do tác động của tự do hóa đúng thời điểm, lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên phong phú, lao động dồi dào... Giai đoạn 2024-2030 là giai đoạn quyết định để Việt Nam chuyển mình thành một nước công nghiệp theo tinh thần Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam giai đoạn 2021-2030. Đây là mốc thời gian quan trọng, mở ra nhiều cơ hội phát triển cho kinh tế nước ta, đặc biệt là dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Nhìn lại sự phát triển của Việt Nam, GS.Trần Văn Thọ (Đại học Waseda- Nhật Bản) chỉ ra những thành tựu lớn về tăng trưởng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, giáo dục, giảm tỷ lệ tử vong… Bên cạnh đó là những thành công về chuyển đổi cơ cấu kinh tế và thành công của chính sách thu hút FDI, chính sách thương mại và sự trỗi dậy của một số DN có năng lực cạnh tranh cao như: Vin Group/VinFast, Viettel, FPT… đồng thời cho rằng “Việt Nam cần nhiều hơn thế”.

Cũng theo GS.Trần Văn Thọ, từ thập niên 1990, Việt Nam đã cho thấy thành quả phát triển đáng kể, nhưng nền kinh tế chưa có được thời kỳ phát triển cao (tăng trưởng mỗi năm phải đạt 10% và tốc độ này phải được duy trì trong 10 năm). Đã vậy, ở trong giai đoạn dân số vàng, mức độ công nghiệp hóa của Việt Nam rất thấp, khu vực phi chính thức còn lớn và tỷ lệ DN siêu nhỏ, nhỏ quá nhiều.

Khuyến nghị về chiến lược và chính sách để phát triển và đạt mức thu nhập cao theo các mục tiêu đề ra, GS.Trần Văn Thọ gợi ý 5 chính sách gồm: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu để tăng năng suất; chính thức hóa khu vực phi chính thức và tăng quy mô DN để đẩy mạnh tích lũy tư bản và cách tân công nghệ (đổi mới sáng tạo); cải cách và phát triển thị trường các yếu tố sản xuất để việc phân bổ nguồn lực có hiệu quả và đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu; chú trọng cung cấp lao động có kỹ năng và khuyến khích hoạt động nghiên cứu, phát triển để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế; tăng cường năng lực đổi mới sáng tạo.

Trong khi đó, theo GS.Ngô Thắng Lợi, Việt Nam luôn định hướng các mục tiêu phát triển xã hội ở mức khá cao và luôn hoàn thành vượt mức trong suốt 30 năm qua. Cụ thể, trong 30 năm qua, Việt Nam đã vượt được 2/3 cửa ải. Đầu tiên, Việt Nam đã vượt qua được vấn đề an ninh lương thực trong giai đoạn 1991-2000. Cửa ải thứ hai, theo ông Lợi, đó là Việt Nam đã thoát khỏi danh sách các nước có thu nhập trung bình thấp. Còn lại, mục tiêu thách thức thứ ba chưa vượt qua được là trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.

"Việt Nam đã cơ bản xây dựng được tiền đề của một nước công nghiệp"- GS.Ngô Thắng Lợi đánh giá. Tuy nhiên, theo chuyên gia này, biên độ tăng trưởng đang có xu hướng giảm và chưa đủ mạnh để tạo ra những đột phá trong thực hiện tiến bộ xã hội. Để đạt được các mục tiêu phát triển cao đã đề ra, GS.Ngô Thắng Lợi cho rằng, Việt Nam không thể không tăng trưởng nhanh, nhưng phải gắn với chất lượng tăng trưởng. Điều này đòi hỏi phải có mô hình phát triển hài hòa, nhằm đạt tác động tốt nhất từ tăng trưởng cho tiến bộ xã hội. Trong đó, bệ đỡ của phát triển hài hòa chính là thể chế phát triển hài hòa.

GS.Kenichi Ohno- Viện Nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản (GRIPS) cũng lưu ý, vấn đề của Việt Nam là tăng trưởng đang chậm lại ở mức thu nhập trung bình (quá sớm) thay vì tăng tốc và phụ thuộc nhiều vào FDI để xuất khẩu, công nghệ và chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Bên cạnh đó, sự tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của DN Việt Nam còn mờ nhạt; hệ thống giao thông hiện đại (đặc biệt là mạng lưới đường sắt đô thị) chậm phát triển… “Để đối phó những vấn đề này, Việt Nam cần nâng cao năng lực lãnh đạo quốc gia và các nhà kỹ trị kinh tế. Cần tích cực thúc đẩy công nghệ và đổi mới với ít quan liêu hơn”- GS.Kenichi Ohno khuyến nghị.

Thái An