Print

Tín dụng chính sách xã hội trở thành “điểm sáng” trong chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội

Thứ Tư, 14 /08/2024 18:30

Chiều 14/8, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội. Hội nghị được kết nối trực tuyến từ điểm cầu Trụ sở Chính phủ với điểm cầu 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Theo báo cáo tại Hội nghị, trong 10 năm, đã có hơn 21 triệu hộ được vay vốn ưu đãi để phát triển sản xuất kinh doanh. Qua đó, đã giúp hơn 3,1 triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo; hơn 4,2 triệu lao động vay vốn tạo việc làm; xây dựng hơn 13,2 triệu công trình cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường vùng nông thôn; hơn 610.000 HSSV vay vốn trang trải chi phí học tập; hơn 193.000 căn nhà cho người nghèo và các đối tượng chính sách; hơn 1,2 triệu lượt NLĐ được DN vay vốn trả lương do ảnh hưởng dịch COVID-19…

Đáng chú ý, mục tiêu bảo toàn, phát triển vốn cho Nhà nước được bảo đảm, chất lượng tín dụng chính sách xã hội được nâng cao. Tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khoanh giảm từ 0,93%/tổng dư nợ (khi bắt đầu thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW) xuống còn 0,56%/tổng dư nợ, trong đó nợ quá hạn chiếm 0,22%/tổng dư nợ (thời điểm 31/7/2024)… Việc kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, trong đó có việc thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển bền vững đất nước.

Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính chỉ rõ, sau 10 năm, với sự chung tay vào cuộc của cả hệ thống chính trị, tín dụng chính sách xã hội đã trở thành “điểm sáng” và là một “trụ cột” trong hệ thống các chính sách giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, đặc biệt là người nghèo và đối tượng yếu thế trong xã hội.

Cụ thể, đã huy động tăng thêm 238.338 tỷ đồng (tăng gấp 2,8 lần so với trước khi thực hiện Chỉ thị), đưa tổng nguồn tín dụng chính sách xã hội đến nay đạt 373.010 tỷ đồng, với tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt 10,8%. Đáng biểu dương là, 100% tỉnh, huyện trong cả nước đã quan tâm cân đối, bố trí ngân sách ủy thác qua Ngân hàng Chính sách xã hội để bổ sung nguồn vốn cho vay; đến nay đã đạt 47.350 tỷ đồng, tăng 43.542 tỷ đồng (gấp 12,4 lần) so với trước khi thực hiện Chỉ thị.

Cũng trong 10 năm qua, nhiều chính sách đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành như: Chính sách cho vay hộ mới thoát nghèo; cho vay ưu đãi để mua, thuê mua nhà ở xã hội; cho vay phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi; cho vay người chấp hành xong án phạt tù; chính sách cho vay trả lương hỗ trợ DN, NLĐ gặp khó khăn do đại dịch…

Tổng dư nợ các chương trình tín dụng đến nay đạt 350.822 tỷ đồng, tăng 221.365 tỷ đồng (tăng gần 171%) so với cuối năm 2014, với hơn 6,8 triệu hộ nghèo và các đối tượng chính sách đang còn dư nợ, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt 10,5%. Nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội đã tiếp tục được triển khai đến 100% xã, phường, thị trấn trong cả nước; giúp trên 21 triệu lượt hộ nghèo và đối tượng chính sách khác được vay vốn với doanh số cho vay đạt 733.152 tỷ đồng…

Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá cao sự chủ động, tích cực của các bộ, ngành, địa phương, đặc biệt là Ngân hàng Chính sách xã hội trong tham mưu, tổ chức thực hiện Chỉ thị số 40 của Ban Bí thư và các chỉ thị, kế hoạch có liên quan. Bên cạnh đó, Thủ tướng chỉ rõ, việc thực hiện Chỉ thị 40 và Kết luận 06 của Ban Bí thư còn một số tồn tại, hạn chế như: Cơ cấu nguồn vốn chưa thực sự hợp lý và đảm bảo tính bền vững; nguồn vốn ủy thác tại một số tỉnh còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh phát triển kinh tế-xã hội tại địa phương; một số chính sách tín dụng mặc dù có điều chỉnh nâng mức cho vay nhưng việc triển khai còn chậm.

Trên cơ sở đó, Thủ tướng lưu ý cần phải có sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị trong thực hiện tín dụng chính sách theo Chỉ thị của Ban Bí thư. Đồng thời, cần tận tâm, trách nhiệm, chú tâm lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của người nghèo và các đối tượng chính sách; tạo điều kiện, cơ hội cho người có nhu cầu vay vốn, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước. Đặc biệt, phải đề ra những mục tiêu, kế hoạch, lộ trình, giải pháp thực hiện có hiệu quả, phù hợp tình hình thực tiễn.

Nhấn mạnh những khó khăn, thách thức bởi tình hình quốc tế và khu vực đang tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, Thủ tướng cho rằng, chúng ra cần tiếp tục xác định tín dụng chính sách xã hội là giải pháp quan trọng nhằm thực hiện các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện công bằng, tiến bộ xã hội, thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, cũng như phát triển kinh tế-xã hội của đất nước nhanh, bền vững.

Thủ tướng cũng nêu rõ định hướng trong thời gian tới, đồng thời yêu cầu, các cấp, các ngành cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, thực hiện hiệu quả hơn nữa chủ trương, quan điểm của Đảng về chính sách xã hội (Nghị quyết số 42-NQ/TW, Chỉ thị số 40-CT/TW và Kết luận 06-KL/TW của Ban Bí thư); tăng cường vai trò, trách nhiệm của Chủ tịch UBND cấp xã trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với tín dụng chính sách xã hội tại cơ sở.

Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các quy định, nhằm tập trung nguồn lực, cải thiện cơ cấu nguồn vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội theo hướng ổn định, bền vững; chủ động báo cáo, tham mưu Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cân đối, cấp đủ vốn điều lệ, cấp bù lãi suất, phí quản lý và vốn thực hiện chính sách tín dụng mới được ban hành, đảm bảo nguồn vốn hoạt động được bố trí trong kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm cho Ngân hàng Chính sách xã hội.

Bên cạnh đó, nghiên cứu kỹ, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, cho phép tăng hạn mức phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh; tạo điều kiện để Ngân hàng Chính sách xã hội được tiếp nhận nguồn vốn ODA và mở rộng các hình thức huy động vốn… nhằm tăng cường nguồn lực để thực hiện mục tiêu mở rộng đối tượng, nâng mức cho vay các chương trình tín dụng, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội và thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia trong giai đoạn tới.

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách liên quan tới tổ chức, hoạt động tín dụng chính sách xã hội của Ngân hàng Chính sách xã hội. Nghiên cứu, bổ sung chính sách hỗ trợ tín dụng phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh đối với hộ có mức sống trung bình làm nông, lâm, ngư, diêm nghiệp. Riêng các địa phương cần tiếp tục quan tâm cân đối, ưu tiên bố trí ngân sách địa phương ủy thác sang Ngân hàng Chính sách xã hội, nhất là nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm, nguồn vốn cho vay nhà ở xã hội…

Đặc biệt, mở rộng quy mô tín dụng, nâng cao quy mô cho vay, tăng cường đối tượng cho vay, nhất là đối tượng là người nghèo, đồng bào DTTS, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, người yếu thế, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, bị ảnh hưởng bởi thiên tai. Tạo công ăn việc làm, tạo sinh kế, tạo điều kiện cho những người yếu thế phát huy sức mạnh nội sinh; tự tin, tự lực, tự cường, vượt lên khó khăn, thách thức để thoát nghèo; từ đó góp phần thực hiện hiệu quả chính sách an sinh xã hội.

PV