Print

Chủ tịch Hồ Chí Minh với Xuân Ất Tỵ 1965

Thứ Ba, 28 /01/2025 09:56

Chúc mừng năm mới vốn không chỉ là một phong tục, một nghi lễ trang trọng của riêng dân tộc Việt Nam, nhưng mừng Xuân mới bằng thơ chúc Tết thì lại là một nét độc đáo, đặc sắc rất riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của người dân Việt Nam. Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của cha ông đã tạo dựng nên một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt, trong đó thơ chúc Tết, mừng Xuân của Nhà văn hóa lớn Hồ Chí Minh vừa là một nét đẹp trong văn hóa Tết của người Việt, vừa là một điểm nhấn đặc biệt trong cốt cách phương Đông của Người. 

Đó chính là một trang sử thi- một bức tranh khái quát ngắn gọn về lịch sử hào hùng, luôn đan xen, quyện chặt giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trên hành trình đấu tranh cho một nước Việt Nam độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh trong thời đại Hồ Chí Minh lịch sử. Nội dung trong đó không chỉ là lời chúc đầu Xuân nồng ấm trong thời khắc giao thoa của trời đất, của thời gian, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái “Đông tàn” đã khép lại nhường chỗ cho “Xuân sắc vạn vật” sinh sôi, mà đó còn là sự khẳng định thành tựu của một năm đã qua, hoạch định phương hướng, sách lược, nhiệm vụ của năm mới đang đến mà Người muốn truyền tải đến đồng bào và chiến sĩ cả nước, với niềm tin tất thắng vào một ngày mai tươi sáng của sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Thư và thơ chúc Tết, mừng Xuân của Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt ở chỗ- đó không chỉ là những lời chúc Tết thân tình, giản dị, dễ nhớ, dễ hiểu, ngời sắc xuân “Mấy lời thân ái nôm na/Vừa là kêu gọi, vừa là mừng Xuân” (Thơ chúc Tết Xuân Giáp Thìn 1964), mà còn đậm đà chất thép, hàm chứa ý nghĩa sâu sa- những lời kêu gọi, những chỉ đạo chiến lược cách mạng, những mục tiêu và phương châm hành động được truyền đạt đến với đồng bào, chiến sĩ ở cả hai miền Nam-Bắc; ở cả tiền tuyến và hậu phương cả nước. Đó không chỉ là sự khắc ghi một dấu mốc đã qua, mà còn là dự báo chiến lược về những gian nan, thử thách và niềm tin thắng lợi trên hành trình đấu tranh cho tương lai của cả một dân tộc quyết không cam tâm làm nô lệ; quyết sống “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và quyết không để kẻ thù chia rẽ đất nước làm hai…

Đây cũng chính là tư tưởng, là khát khao, là một tấm lòng kiên trung, vẹn nguyên sự tận hiến vì nước, vì dân, vì một đất nước Việt Nam sạch bóng quân thù- được hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, ngày càng phát triển giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì thế, mỗi dịp Xuân về, việc người dân háo hức đón chờ thơ, thư chúc Tết của Người lúc Giao thừa không chỉ là đón chờ môt “thông điệp” kỳ diệu (thể hiện rõ tư tưởng chủ đạo về những nhiệm vụ chiến lược trong đường lối cách mạng Việt Nam), mà còn là đón chờ những vần thơ súc tích, cô đọng, hòa quyện sâu sắc tư tưởng, tình cảm của vị cha già dân tộc.

Và cũng vì thế, những bài thơ, thư chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa mang âm hưởng hùng tráng, đầy ý thơ, có sức lay động lòng người: “Bao giờ kháng chiến thành công/Chúng ta cùng uống một chung rượu đào/Tết này ta tạm xa nhau/Chắc rằng ta sẽ Tết sau sum vầy” (Thơ chúc Tết Xuân Bính Tuất 1946); “Xuân này kháng chiến đã năm xuân/Nhiều xuân thắng lợi càng gần thành công/Toàn dân hǎng hái một lòng/Thi đua chuẩn bị, tổng phản công kịp thời” (Thơ chúc Tết Xuân Tân Mão 1951); “Quân và dân ta nhất trí kết đoàn/Kháng chiến, kiến quốc nhất định hoàn toàn thành công/Hoà bình dân chủ thế giới khắp Nam, Bắc, Tây, Đông/Nǎm mới, thắng lợi càng mới, thành công càng nhiều” (Thơ chúc Tết Xuân Giáp Ngọ 1954); “Năm mới, với tinh thần và cố gắng mới, chúng ta quyết tâm làm trọn nhiệm vụ để tranh lấy thắng lợi mới trong công cuộc hòa bình. Vậy có câu đối Tết nôm na: Hòa bình, Thống nhất, Độc lập, Dân chủ- Tam dương khai thái/Đoàn kết, Thi đua, Tăng gia, Tiết kiệm- Ngũ phúc lâm môn” (Thư Chúc mừng năm mới Xuân Ất Mùi 1955)…; lại vừa mang cảm hứng lịch sử, chan chứa khát vọng vào tương lai tươi sáng: “Mừng Nhà nước ta 15 Xuân xanh!/Mừng Đảng chúng ta 30 tuổi trẻ!/Chúc đồng bào ta đoàn kết thi đua/Xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa/Chúc đồng báo ta bền bỉ đấu tranh/Thành đồng miền Nam vững bền mạnh mẽ/Cả nước một lòng, hǎng hái tiến lên/Thống nhất nước nhà, Bắc Nam vui vẻ!” (Thơ chúc Tết Xuân Canh Tý 1960); “Năm qua thắng lợi vẻ vang/Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to/Vì độc lập, vì tự do/Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào/Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào/Bắc-Nam sum họp xuân nào vui hơn” (Thơ chúc Tết Xuân Kỷ Dậu 1969)… như thúc giục lòng người!

Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa gần 55 năm, ước nguyện, niềm tin, hy vọng cháy bỏng của Người về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, về một mùa Xuân thống nhất “Bắc Nam sum họp một nhà” trong bài thơ chúc Tết Xuân Kỷ Dậu- năm 1969 đã trở thành sự thật. Một đất nước Việt Nam thống nhất, non sông liền một dải, không còn bóng dáng quân thù đã ngày một hồi sinh sau những năm dài chiến tranh; đã đạt nhiều thành tựu nổi bật về kinh tế, văn hóa, an sinh xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại sau gần 40 năm đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng… được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao vì luôn có tư tưởng, tình cảm, những giá trị lịch sử quý giá trong từng bức thư, bài thơ chúc Tết của Người đồng hành, nâng bước.

Năm tháng đã qua đi, biết bao mùa Xuân mới lại về, song đồng bào và chiến sĩ cả nước vẫn nhớ khôn nguôi lời Người trong những bức thư, những bài thơ chúc Tết khi xưa. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Việt Nam cũng vẫn nhớ khôn nguôi lời Người căn dặn trong bản Di chúc lịch sử để đoàn kết, thống nhất trong tư tưởng và hành động; để đồng tâm, đồng chí, đồng lòng xây dựng đất nước Việt Nam “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Người mong ước. Một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa kiên định với sự lựa chọn của Người, của Đảng Cộng sản Việt Nam, của nhân dân Việt Nam từ mùa Xuân năm 1930 vẫn bản lĩnh, kiên cường, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội- dù thế giới đầy biến động, dù mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã sụp đổ vào thập niên 1990…

Năm tháng qua đi, song âm hưởng những lời chúc trong thư, thơ chúc Tết vừa mang tính chính luận, vừa mang tính nghệ thuật; vừa thể hiện tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, vừa thể hiện rõ chủ trương, đường lối của Đảng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đến mỗi trái tim người dân Việt Nam, đến mỗi căn nhà, con phố Việt Nam trong tiết Xuân đang đâm chồi, nảy lộc thì vẫn còn mãi. Đó không chỉ là một nét đẹp của văn hóa Tết hiện đại, vừa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa mang hơi thở của đời sống đương đại, mà đó còn là một thông điệp tràn đầy khát vọng hướng đến tương lai của Chủ tịch Hồ Chí Minh soi đường cho nhân dân Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng.

Năm Ất Tỵ 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh 75 tuổi (Người đã trải qua 7 năm Tỵ (Quý Tỵ 1893, Ất Tỵ 1905, Đinh Tỵ 1917, Kỷ Tỵ 1929, Tân Tỵ 1941, Quý Tỵ 1953, Ất Tỵ 1965) và tháng 5 năm này Người đã bắt đầu viết Di chúc. Đặc biệt, năm 1965 trong lịch sử Việt Nam hiện đại là một năm có nhiều sự kiện lịch sử quan trọng như Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tại Hội nghị phổ biến kế hoạch nhà nước năm 1965 (ngày 19/1/1965) là: “1965 là một năm vĩ đại: Đảng thân yêu của chúng ta vừa 35 tuổi. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chẵn 20 năm. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất sắp kết thúc… Khẩu hiệu của chúng ta là: Đoàn kết, đấu tranh, thắng lợi”1. Vì thế, theo lời Người, “từng giờ, từng phút, từ cán bộ đến quần chúng đều phải cố gắng thực hiện “Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp cho đồng bào miền Nam ruột thịt” và trong khi “miền Nam anh dũng đang hy sinh xương máu để đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược và bảo vệ miền Bắc. Thì trong công cuộc xây dựng nước nhà, miền Bắc phải quyết tâm vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ và ủng hộ miền Nam”2.Và cũng vì thế, trong thời khắc linh thiêng tiễn năm cũ, đón năm mới, lời thư và lời thơ chúc Tết năm 1965 của Chủ tịch Hồ Chí Minh tràn đầy tinh thần cổ vũ, động viên đồng bào, chiến sĩ hai miền Nam-Bắc cùng tập trung thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược (vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc).

Thư của Người ghi rõ:

“Đồng bào thân mến!

Nhân dịp nǎm mới, tôi gởi lời chúc mừng thân ái nhất đến toàn thể đồng bào miền Bắc và miền Nam, toàn thể chiến sĩ và cán bộ, đến các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng, đến kiều bào ta ở nước ngoài. Tôi thay mặt đồng bào ta gởi lời chúc mừng tốt lành đến nhân dân các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, nhân dân các nước trên thế giới, đặc biệt là các bạn Á, Phi, Mỹ La tinh. Sau đây là vài vần nôm na chúc đồng bào năm mới: “Chào mừng Ất Tỵ xuân năm mới/Nhà nước ta vừa tuổi hai mươi/Miền Bắc xây dựng đời sống mới vui tươi/Miền Nam kháng chiến ngày càng tiến tới/Đồng bào hai miền thi đua sôi nổi/Đấu tranh anh dũng, cả nước một lòng. Chủ nghĩa xã hội nhất định thắng lợi! Hòa bình thống nhất ắt hẳn thành công!”[1].

Vẫn rất truyền thống, thơ chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh thường chỉ dài từ 4-10 dòng và năm Ất Tỵ 1965 cũng vậy. Thư và thơ chúc Tết của Người vẫn là sự tổng kết thắng lợi của năm cũ và nêu lên nhiệm vụ của năm mới; vẫn là rất ngắn gọn và giản dị, dễ hiểu và dễ nhớ, song lại tràn đầy những cảm hứng lớn lao của lịch sử dân tộc: “Chào mừng Ất Tỵ xuân năm mới/Nhà nước ta vừa tuổi hai mươi/Miền Bắc xây dựng đời sống mới vui tươi/Miền Nam kháng chiến ngày càng tiến tới”. Cả trong thư và thơ của Người, điểm nhấn và tư tưởng chỉ đạo vẫn là lời cổ vũ, là hy vọng, là dặn dò, là ước mong của Người trong không khí thiêng liêng của một năm mới đang đến: “Đồng bào hai miền thi đua sôi nổi/Đấu tranh anh dũng, cả nước một lòng”; và cuối cùng là khẳng định niềm tin tất thắng “Chủ nghĩa xã hội nhất định thắng lợi! Hòa bình thống nhất ắt hẳn thành công!”…

Chính vì thế, khi Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Quảng Ninh lập công xuất sắc, đánh thắng trận đầu ngày 5/8/1964 (bắt sống tên giặc lái đầu tiên), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định “xuống động viên và chúc mừng” quân và dân tỉnh Quảng Ninh nhân dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ. Ngày 30 Tết, Người cùng Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn lên đường đi thăm Quảng Ninh. Sáng mồng 1 Tết, Người nói chuyện với đồng bào và cán bộ tỉnh Quảng Ninh: “Nhân dịp Tết Nguyên đán, Bác thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ thân ái chúc: Các đồng chí công nhân, bộ đội và cán bộ/Các Anh hùng Lao động và các chiến sĩ thi đua/Các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng,/Năm mới cố gắng mới, thắng lợi mới! Chúc mừng và cám ơn các đồng chí chuyên gia đang tận tình giúp chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội”[2].

Nói chuyện với công nhân và cán bộ ở Uông Bí (Quảng Ninh), Người rất vui lòng khi thấy cán bộ và công nhân đã đoàn kết nhất trí, giúp đỡ lẫn nhau và có nhiều sáng kiến hợp lý hóa sản xuất để tăng năng suất lao động; đồng thời thường xuyên học tập kinh nghiệm của các đồng chí chuyên gia và công nhân Liên Xô để xây dựng mỏ than, nhà máy điện và nhà máy cơ khí, nhất là “các cô, các chú đã sôi nổi thi đua “Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp đồng bào miền Nam ruột thịt” và đã đạt được thành tích khá”[3]

Trong chuyến thăm Quảng Ninh lần này, Người “vui lòng thấy đồng bào tiến bộ khá về mọi mặt. Việc hợp nhất hai tỉnh đã thành công tốt, cán bộ và đồng bào các dân tộc đoàn kết vui vẻ, hăng hái thi đua, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, quyết tâm xây dựng Quảng Ninh thành một tỉnh giàu mạnh”[4]. Đồng thời, Người căn dặn “các cấp ủy đảng và các chi bộ phải thật sự đi sâu đi sát. Phải rất coi trọng công tác tư tưởng và công tác tổ chức, quản lý; phải khéo kết hợp phong trào tăng gia sản xuất với cuộc vận động “ba xây, ba chống”; phải thường xuyên bồi dưỡng quyết tâm phấn đấu và nhiệt tình cách mạng của cán bộ và công nhân”[5].

Kết thúc hai buổi gặp, để ghi nhận và động viên cán bộ, công nhân vùng mỏ và nhân dân các dân tộc của tỉnh Quảng Ninh tiếp tục đoàn kết, thống nhất trong tư tưởng và hành động, phát huy thắng lợi trong sản xuất, công tác và sẵn sàng chiến đấu, Người đã dành tặng “một lá cờ thưởng luân lưu cho cả ngành than. Đơn vị nào muốn được lá cờ thì phải thi đua gương mẫu trong mọi việc[6]; dành thưởng “một lá cờ luân lưu cho cả khu mỏ” và căn dặn cán bộ và công nhân phải “cố gắng thi đua để giành lấy giải thưởng; những cá nhân xuất sắc nhất sẽ được “Bác sẽ tặng thưởng riêng”…

Mùa Xuân 60 năm trước, đồng bào và chiến sĩ cả nước nói chung, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Quảng Ninh nói riêng được đón nghe thư và thơ chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh; được nhận từ vị lãnh tụ kính yêu tư tưởng chỉ đạo, đường lối, chủ trương của Đảng; được lĩnh hội nhiệm vụ, tinh thần thi đua quyết thắng để đạt thành tựu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn xã hội chủ nghĩa của tiền tuyến lớn miền Nam và đấu tranh vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc được kết tinh, cô đọng trong những câu thơ hàm súc, sâu lắng hòa quyện nhuần nhuyễn ý Đảng và lòng Dân. Đó chính là sự gắn kết tinh thần, tình yêu Tổ quốc, yêu nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với niềm tin tất thắng vào chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó cũng chính là nguồn sức mạnh tinh thần đã đồng hành, nâng bước, tạo đà cho những thắng lợi của quân dân Việt Nam trong năm mới và những năm sau đó.

Thư và thơ chúc Tết đồng bào, chiến sĩ cả nước từ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành một phong tục đẹp, một nét văn hóa đón Xuân trong thời khắc Giao thừa ở Việt Nam mỗi dịp Tết Nguyên đán. Sau Chủ tịch Hồ Chí Minh, các Chủ tịch nước kế nhiệm không chỉ giữ vững truyền thống tốt đẹp ấy, mà còn thông qua những bức thư và những câu thơ chúc Tết để truyền tải thông điệp đầu năm của nguyên thủ quốc gia. Âm hưởng từ mùa Xuân Ất Tỵ- mệnh lệnh từ sự lựa chọn, kiên định một niềm tin tất thắng “Chủ nghĩa xã hội nhất định thắng lợi! Hòa bình thống nhất ắt hẳn thành công!” từ 60 năm trước của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn vang vọng đến hôm nay và sẽ đồng hành cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Việt Nam vững vàng bước vào “kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu” như Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định.

Bài: TS.Đinh Quang Thành

Đồ hoạ: Thanh An

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.14, tr.444

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.14, tr.474

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.14, tr.480

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.14, tr.474

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.14, tr.478

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.14, tr.479