Print

Hành trình 80 năm kiến tạo an sinh vì Nhân dân

Thứ Hai, 01 /09/2025 21:01

Tròn 80 năm kể từ ngày Đất nước được độc lập và bước vào hành trình xây dựng và phát triển, đó cũng là chặng đường đầy gian nan và thử thách kiến tạo nền an sinh vì Nhân dân.

Những ngày này, Nhân dân cả nước nô nức đón chào kỷ niệm 80 năm ngày Quốc khánh (2/9/1945 - 2/9/2025). Hàng triệu triệu bức ảnh ghi lại những khoảnh khắc cùng lá cờ đỏ sao vàng như để minh chứng và lan tỏa cho niềm tự hào dân tộc. Đó là những hình ảnh rất đỗi bình dị từ nền hòa bình của đất nước - đã và đang được thế hệ hôm nay viết tiếp, kế thừa từ những trang sử hào hùng của thế hệ cha anh.

Nhưng hòa bình không chỉ đơn thuần hiện hữu qua những hình ảnh lung linh. Hòa bình của một quốc gia còn nằm ở những con số cho thấy sự phát triển, là đời sống ấm no, hạnh phúc của từng người dân. Để dấu mốc 80 năm kỷ niệm ngày Quốc khánh được trọn vẹn, cả nước đã chung tay nỗ lực, chạy đua cùng thời gian để hoàn thành việc xóa hơn 334.230 căn nhà tạm, nhà dột nát. Đây được xem là một kỳ tích trong công tác giảm nghèo của Việt Nam, thể hiện bước chuyển mình mạnh mẽ sau 80 năm độc lập và đổi mới.

Đây cũng là minh chứng mang đầy giá trị thực tiễn cho phương châm “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Hơn bao giờ hết, “quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu trong bản Tuyên ngôn độc lập cách đây 80 năm về trước, đã và đang được hiện hữu ở từng gia đình trên khắp đất nước Việt Nam.

Để đạt được những kết quả đó là cả một quá trình dài với nhiều nỗ lực phát triển của các thế hệ cha anh, song hành các mục tiêu tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội, lấy đời sống của người dân làm thước đo cho thành quả đi lên của đất nước.

Từ những những ngày đầu của chính quyền cách mạng còn non trẻ năm 1945, trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu, Chính phủ lâm thời vừa tập trung tổ chức, xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng, vừa chống “thù trong, giặc ngoài”, vừa xây dựng và củng cố tiềm lực đất nước. Đặc biệt, dù trong hoàn cảnh vô cùng ngặt nghèo khó khăn, nhưng các chính sách an sinh xã hội đã luôn được Đảng, Nhà nước ta chú trọng thực hiện. Điều này được thể hiện sinh động qua các phong trào “Diệt giặc đói” với “Hũ gạo cứu đói”, phong trào “Diệt giặc dốt” với “Bình dân học vụ”, phong trào “Tuần lễ vàng”…

Cho đến nay, GDP của nước ta tăng hơn 110 lần so với năm 1986, thu nhập bình quân đầu người năm 2025 dự kiến đạt 5.000 USD. Đặc biệt, đã huy động nguồn lực, tập trung thực hiện hiệu quả các chính sách bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, giảm nghèo bền vững, không ngừng nâng cao đời sống tinh thần, vật chất của Nhân dân. Việt Nam được đánh giá là hình mẫu thành công trong thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs), hoàn thành mục tiêu xóa đói giảm nghèo trước thời hạn 10 năm.

Cụ thể hơn, tỷ lệ nghèo đa chiều theo chuẩn mới năm 2024 chỉ còn khoảng 1%. Theo báo cáo của UNDP, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 2024 tăng 8 bậc so với kỳ trước, từ 115 lên vị trí 107/193 quốc gia. Đến nay, đã phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; tỷ lệ huy động học sinh đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học đạt đạt 99,7%; tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình giáo dục THCS đạt 90,7%.

Người cao tuổi được quan tâm, chăm sóc; công tác đền ơn, đáp nghĩa với các thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng được thực hiện tốt. Tuổi thọ trung bình của Việt Nam tăng từ 65,5 tuổi năm 1993 lên 74,5 tuổi năm 2023 và cao hơn trung bình thế giới (73 tuổi). Nhà nước hiện trợ cấp thường xuyên cho trên 1,13 triệu người có công với kinh phí 29.000 tỷ đồng/năm.

Hệ thống an sinh xã hội không ngừng được củng cố, mở rộng và ngày càng xây dựng được nền tảng bền vững. Phép thử cho hệ thống an sinh xã hội của nước ta được thấy rõ qua đại dịch toàn cầu COVID-19. Tính riêng trong đại dịch COVID-19, Việt Nam đã hỗ trợ cho 67 triệu lượt người với kinh phí hơn 100.000 tỷ đồng, là một trong 5 quốc gia có tỷ lệ bao phủ vaccine cao nhất thế giới với tiêm chủng miễn phí.

Đặc biệt, 2 trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội là bảo hiểm xã hội (BHXH) và bảo hiểm y tế (BHYT) không ngừng được hoàn thiện cả về mặt chính sách và kết quả thực hiện.

Sau hơn 33 năm thực hiện chính sách và 15 năm triển khai thực hiện Luật BHYT, chính sách BHYT đã từng bước phát triển và đạt được những thành tựu quan trọng, khẳng định tính đúng đắn và phù hợp trong việc lựa chọn chính sách tài chính y tế thông qua BHYT, tạo nguồn tài chính bền vững cho chăm sóc sức khỏe, tiếp cận mục tiêu bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân. Trong đó, tỷ lệ bao phủ BHYT gia tăng nhanh chóng. Năm 2009 - năm đầu tiên thực hiện Luật BHYT, tỷ lệ bao phủ BHYT mới đạt khoảng 58% dân số, năm 2024 đạt 94,26% dân số, tương ứng khoảng 95,525 triệu người. Số lượt người có thẻ BHYT đi khám, chữa bệnh tăng nhanh qua từng năm. Năm 2009 có 88,6 triệu lượt; năm 2015 có 130,2 triệu lượt; hết năm 2024 có 183,6 triệu lượt, tăng 9,7 triệu lượt (5,6%) so với năm 2023.

Hằng năm, bình quân Quỹ BHYT chi trả 87-89% tổng chi phí khám, chữa bệnh BHYT; người tham gia BHYT có trách nhiệm cùng chi trả 11-13%. Hệ thống cơ sở khám, chữa bệnh BHYT ngày càng mở rộng và nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh BHYT của người dân. Đến hết ngày 31/12/2024, toàn quốc có 13.395 cơ sở ký hợp đồng khám, chữa bệnh BHYT, trong đó gồm 1.793 cơ sở công lập và hơn 10.390 trạm y tế xã; chất lượng khám, chữa bệnh BHYT ngày càng được nâng cao. Cùng với đó, 1.212 cơ sở y tế tư nhân cũng đã tham gia sâu rộng vào công tác khám, chữa bệnh BHYT, góp phần giảm tải cho bệnh viện công lập.

Với chính sách BHXH, số người tham gia BHXH tăng từ 2,27 triệu người (năm 1995) hiện đạt trên 20,15 triệu người, chiếm 42,71% lực lượng lao động trong độ tuổi (năm 2024); tăng 9 lần so với năm 1995 (năm đầu tiên chính thức thực hiện và mở rộng chính sách BHXH đến người lao động ngoài quốc doanh). Bình quân mỗi năm có khoảng 10 triệu lượt người được hưởng các chế độ BHXH ngắn hạn như: ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe... Hiện có khoảng 3,3 triệu người đang hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng; khoảng 1,8 triệu người đang hưởng trợ cấp người cao tuổi; từ 1/7/2025, được mở rộng thêm khoảng 800.000 người (đã quy định giảm độ tuổi nhận trợ cấp hưu trí xã hội từ 75 tuổi trở lên theo quy định của Luật BHXH; quy định cũ là từ 80 tuổi trở lên).

Số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp đạt 16,133 triệu người, chiếm 34,18% lực lượng lao động trong độ tuổi (Từ ngày 1/1/2009, các quy định về bảo hiểm thất nghiệp bắt đầu có hiệu lực theo Luật BHXH năm 2006; năm 2009, có 5,99 nghìn người tham gia bảo hiểm thất nghiệp, chiếm 13,3% lực lượng lao động trong độ tuổi).

80 năm là một dấu mốc phát triển quan trọng của dân tộc. Đất nước bước vào kỷ nguyên mới với thế và lực phát triển mới; từng bước hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế 2 con số. Trong bối cảnh đó, các chính sách, hệ thống an sinh xã hội sẽ là nền tảng quan trọng, là “bệ đỡ”; là “lá chắn” để không ai bị bỏ lại phía sau, đảm bảo vững chắc đời sống của từng người dân. Đây cũng sẽ là nguồn lực quan trọng để “quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” tiếp tục được hiện hữu, cụ thể hóa trên khắp mọi miền của Tổ quốc.

Minh Đức