Ứng phó và vượt qua đại dịch Covid-19, hướng tới phục hồi và phát triển
Sáng 31/3, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương và Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức Hội thảo "Kinh tế Việt Nam năm 2020 và triển vọng năm 2021- Ứng phó và vượt qua đại dịch Covid-19, hướng tới phục hồi và phát triển".
Ấn phẩm Đánh giá kinh tế Việt Nam năm 2020 của Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU) cho thấy, dư địa tài khóa của Việt Nam đang thấp nhất trong khối các nước ASEAN+5, khiến việc thiết kế chính sách hỗ trợ tiếp theo ngày một khó. Thâm hụt ngân sách dai dẳng, chi tiêu ngân sách cao với cơ cấu bất hợp lý (tỷ lệ chi thường xuyên chiếm phần lớn) và tỷ lệ nợ công trên GDP cao. Năm 2020, Chính phủ ban hành gói hỗ trợ lần 1 với quy mô được lượng hoá tương đương với 3% GDP, nhưng thực tế mức này vẫn thấp hơn nhiều so với mức 15% GDP của các nước đã phát triển, 10-12% GDP của các nước mới nổi tương đương và mức 2-7% tại các nước Đông Nam Á.
Nhìn lại việc gia hạn tiền nộp thuế và thuê đất trong năm 2020, nhóm nghiên cứu NEU đánh giá chính sách còn hạn chế và chưa lan toả đến mọi đối tượng chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Thời gian gia hạn ngắn và sai lệch trong dự báo dẫn đến hơn 65% tổng số tiền thuế dự kiến không được gia hạn. Khoảng 83% DN và 84% hộ và cá nhân kinh doanh đủ điều kiện hưởng lợi nhưng không tiếp cận được với chính sách...
Để khắc phục hạn chế của chính sách này, nhóm nghiên cứu khuyến nghị Chính phủ nên tiếp tục mở rộng đối tượng và kéo dài thời gian, tùy thuộc vào diễn biến thực tế của dịch bệnh. Tuy nhiên, việc gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất năm 2021 cần được thực hiện trên cơ sở đánh giá mức độ hiệu quả của chính sách lần 1, để xác định được những ngành, loại hình DN cần hỗ trợ, cũng như mức độ hỗ trợ phù hợp tuỳ theo sức ảnh hưởng của dịch bệnh.
Cùng với đó, nhóm nghiên cứu còn khuyến nghị, các chính sách liên quan đến an sinh xã hội phải được ưu tiên hàng đầu. Dịch Covid-19 có thể tái bùng phát bất kỳ lúc nào, do vậy, các gói an sinh xã hội cho các đối tượng bị ảnh hưởng cần được tiếp tục duy trì. Đối tượng thụ hưởng nên được mở rộng và chú trọng tới nhóm lao động không có giao kết hợp đồng thuộc khu vực phi chính thức. Ngoài ra, Nhà nước nên cho phép DN sử dụng quỹ BH thất nghiệp để đào tạo kỹ năng cho NLĐ trong thời gian giãn việc, nghỉ việc. NLĐ dù tạm thời chưa có việc làm cũng nên được duy trì tham gia BHXH, từ đó được bảo đảm các quyền lợi về BH thất nghiệp và BH TNLĐ-BNN.
Tại Hội thảo, các chuyên gia cũng khuyến nghị các chính sách hỗ trợ tín dụng cần rõ ràng, minh bạch và gỡ bỏ rào cản không cần thiết. Đơn cử như gói 16.000 tỷ đồng cho vay lãi suất 0% hỗ trợ DN trả lương cho NLĐ ban hành rồi sửa đổi, nhưng vẫn xa rời thực tế. Ngoài quy định giảm doanh thu, điều kiện đặt ra để được vay gói này là DN có NLĐ đang tham gia BHXH bắt buộc, phải ngừng việc từ 1 tháng liên tục trở lên.
Cùng với đó, chính sách giữ nguyên nhóm nợ cho các DN chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19, theo nhóm nghiên cứu NEU, cũng cần được rà soát và điều chỉnh để các DN dễ tiếp cận hơn. Khi thời hạn cơ cấu lại nợ hết hiệu lực, rất có thể nhiều khoản nợ xấu sẽ bộc lộ. Do vậy, các ngân hàng cần chủ động đánh giá đầy đủ về những rủi ro có thể phát sinh từ các khoản nợ đã được cơ cấu lại, trích lập dự phòng đầy đủ nếu cần thiết.
Vũ Thu