Print

Hiện trạng bụi PM2.5 giai đoạn 2019-2020 vượt nhiều lần mức khuyến nghị của WHO

Thứ Tư, 01 /12/2021 14:50

Báo cáo “Hiện trạng bụi PM2.5 ở Việt Nam giai đoạn 2019-2020 sử dụng dữ liệu đa nguồn” được công bố hôm nay (1/12) là báo cáo đầu tiên cung cấp thông tin hiện trạng bụi PM2.5 không chỉ tại Hà Nội, TP.HCM, mà của tất cả 63 tỉnh, thành phố tại Việt Nam.

Bức tranh toàn cảnh đầu tiên về hiện trạng bụi PM2.5 tại Việt Nam

Báo cáo này được thực hiện bởi Trường Đại học Công nghệ- Đại học Quốc gia Hà Nội (VNU-UET), Trung tâm Sống và Học tập vì Môi trường và Cộng đồng (Live&Learn) cùng các chuyên gia trong và ngoài nước, với dữ liệu được tổng hợp và phân tích từ trạm quan trắc tiêu chuẩn, thiết bị cảm biến tới dữ liệu vệ tinh. Báo cáo nằm trong dự án “Chung tay vì không khí sạch” được tài trợ bởi Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID).

Theo Báo cáo, chất lượng không khí toàn quốc năm 2020 có phần cải thiện hơn so với 2019. Tuy nhiên, nhiều vùng và địa phương vẫn chịu ô nhiễm bụi PM2.5 (nghĩa là có nồng độ PM2.5 trung bình năm cao hơn QCVN 05:2013/BTNMT). Trên phạm vi toàn quốc, nồng độ PM2.5 trung bình năm 2020 (8-35,8 µg/m3) có xu hướng giảm so với năm 2019 (9-41µg/m3). Các vùng có nồng độ bụi PM2.5 cao là Đồng bằng sông Hồng (Hà Nội và các tỉnh lân cận), Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh (các khu vực ven biển), và TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương.

Năm 2020, toàn quốc có 10 tỉnh, thành có nồng độ bụi PM2.5 trung bình năm vượt quy chuẩn, trong đó tất cả các tỉnh, thành này đều nằm ở miền Bắc. Năm 2019, toàn quốc có 13 tỉnh, thành có nồng độ PM2.5 trung bình năm vượt quy chuẩn QCVN 05:2013/BTNMT (gồm 11 tỉnh, thành tại miền Bắc và 2 tỉnh thành tại miền Nam).

Cũng trong năm 2020, miền Bắc có 10 tỉnh, thành có nồng độ bụi PM2.5 trung bình năm toàn tỉnh vượt quy chuẩn quốc gia QCVN 05:2013/BTNMT, bao gồm: Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nội, Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Hà Nam, Ninh Bình, Vĩnh Phúc. Miền Trung và miền Nam không có tỉnh, thành phố nào có nồng độ bụi PM2.5 trung bình năm 2020 toàn tỉnh vượt quy chuẩn quốc gia. Tuy nhiên, trên địa bàn một số tỉnh miền Trung (Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Nghệ An) và một số tỉnh miền Nam (TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai) vẫn có nhiều khu vực đang chịu ô nhiễm bụi PM2.5.

Nếu so sánh với nồng độ bụi PM2.5 theo khuyến nghị của WHO năm 2021 (5µg/m3) và năm 2005 (10 µg/m3), nồng độ bụi PM2.5 của tất cả các tỉnh, thành phố trên toàn quốc trong giai đoạn 2019-2020 đều vượt nhiều lần các mức khuyến nghị này.

Báo cáo cũng đã xây dựng các bản đồ phân bố nồng độ bụi chi tiết tới cấp quận/huyện/thị xã cho Thủ đô Hà Nội và TP.HCM. Các dữ liệu tổng hợp cho thấy, giãn cách xã hội do đại dịch Covid-19 đã phần nào giúp cải thiện chất lượng không khí toàn quốc và hai đô thị đặc biệt là Hà Nội và TP.HCM.

Tại Hà Nội, đây là thành phố đứng thứ 6 trong xếp hạng các tỉnh, thành phố có nồng độ bụi PM2.5 trung bình năm 2020 cao nhất. Nồng độ bụi trung bình cả hai năm 2019-2020 đều vượt quy chuẩn quốc gia QCVN 05:2013/BTNMT, mặc dù ô nhiễm bụi PM2.5 năm 2020 giảm 16% so với năm 2019. Có sự chênh lệch nồng độ bụi PM2.5 trung bình năm giữa các quận, huyện, trong đó cao hơn nội thành và thấp hơn ở các huyện ngoại thành (trừ các huyện Gia Lâm, Đông Anh và Thanh Trì). Năm 2020, có 29/30 quận, huyện có nồng độ trung bình năm vượt quy chuẩn quốc gia. Nồng độ bụi PM2.5 có chênh lệch rõ rệt theo mùa, cao hơn từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau và thấp hơn từ tháng 5 đến tháng 9 trong năm.

Tại TP.HCM, nồng độ bụi PM2.5 trung bình năm đứng thứ 11 trong xếp hạng toàn quốc. Nồng độ trung bình năm 2020 của thành phố vẫn thấp hơn giới hạn cho phép của QCVN 05:2013/BTNMT, và giảm 13% so với nồng độ trung bình năm 2019. Năm 2020, nồng độ bụi PM2.5 cao ở phía Bắc và thấp ở phía Nam của thành phố; và có 12/24 quận, huyện có nồng độ trung bình năm vượt quy chuẩn quốc gia. Nồng độ bụi có sự khác biệt theo mùa, cụ thể là cao trong các tháng 11 đến tháng 2 năm sau (mùa khô) và thấp trong các tháng 6 đến tháng 10 trong năm (mùa mưa).

Đối với đóng góp nguồn thải bụi PM2.5, các nghiên cứu kiểm kê phát thải gần đây cho thấy: Tại Hà Nội, kết quả kiểm kê cho năm 2018 theo nghiên cứu của GS-TS.Nguyễn Thị Kim Oanh và cộng sự cho thấy khoảng 48,3% lượng PM2.5 đến từ các hoạt động công nghiệp và làng nghề, 21,3% từ giao thông, 20,2% do đốt phụ phẩm nông nghiệp (rơm rạ), 6,6% do đun nấu dân dụng và thương mại, và khoảng 3,6% tổng lượng phát thải đến từ các lĩnh vực còn lại (chưa tính đến bụi đường, bụi PM2.5 thứ cấp và một số nguồn khác gồm xây dựng, lò đốt rác, vận tải đường biển quốc tế, hỏa hoạn, đốt hương, nến và vàng mã…).

Tại TP.HCM, các nghiên cứu đều chỉ ra các nguồn thải bụi PM2.5 chiếm tỷ lệ cao là giao thông và hoạt động công nghiệp. Kết quả kiểm kê năm 2017 theo nghiên cứu của PGS-TS.Hồ Quốc Bằng và cộng sự cho thấy nguồn đường (giao thông) đóng góp 45%, nguồn điểm đóng góp 32% và nguồn điện đóng góp 23%. Theo kết quả kiểm kê năm 2018, đóng góp chính cho ô nhiễm PM2.5 lần lượt là giao thông đường bộ, hoạt động công nghiệp, đun nấu dân sinh và đun nấu thương mại (tỷ lệ tương ứng là 58,2%, 22,8%, 12,8%).

Cần tiếp cận đa nguồn dữ liệu trong giám sát chất lượng không khí

Chia sẻ về báo cáo, TS.Hoàng Dương Tùng- Chủ tịch Mạng lưới Không khí sạch Việt Nam (VCAP) cho biết: “Tôi nghĩ đây là một công bố mới, không chỉ là vì độ phủ về vấn đề chất lượng không khí ở toàn Việt Nam, mà còn ở tiếp cận nhìn nhận. Trước đây, các báo cáo của Bộ TN-MT mới chỉ dựa vào số liệu từ trạm quan trắc liên tục và quan trắc định kỳ. Còn báo cáo này có điểm mới ở việc sử dụng số liệu vệ tinh cùng với số liệu mặt đất để cho ra bức tranh tương đối tổng thể về chất lượng không khí toàn Việt Nam, chi tiết tới từng tỉnh hay từng quận, huyện. Tiếp cận kết hợp số liệu vệ tinh, số liệu trạm truyền thống và cảm biến chi phí thấp là hướng đi mà nhiều quốc gia đã và đang được ứng dụng ở nhiều quốc gia; tuy nhiên ở Việt Nam đây là báo cáo đầu tiên sử dụng đa nguồn dữ liệu để đưa ra bức tranh toàn cảnh và cho người đọc một cách nhìn mới, tổng quát để bổ sung cho các báo cáo của cơ quan nhà nước”.

Dựa trên kết quả của báo cáo và tham khảo kinh nghiệm quốc tế, nhóm nghiên cứu cũng đưa ra các khuyến nghị cụ thể. Về ứng dụng tiếp cận đa nguồn và dữ liệu mô hình tính toán từ ảnh vệ tinh trong giám sát chất lượng không khí nhằm đưa ra bức tranh về hiện trạng môi trường không khí ở cấp quốc gia, vùng miền và tỉnh, thành; xây dựng bản đồ phân bố bụi PM2.5 chi tiết tới từng quận, huyện, thị xã tại các tỉnh, thành phố có ô nhiễm bụi PM2.5. Các bản đồ chi tiết này sẽ hỗ trợ các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường và ban, ngành liên quan đưa ra các ưu tiên, mục tiêu cụ thể và giải pháp quản lý chất lượng không khí phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.

Bên cạnh đó, đẩy mạnh các nghiên cứu để xác định đóng góp nguồn thải bụi PM2.5 và cho các chất ô nhiễm không khí khác, đặc biệt ở các tỉnh, thành phố đang bị ô nhiễm bụi như kết quả báo cáo nêu ra, từ đó có chính sách phù hợp và hiệu quả trong kiểm soát các nguồn thải chính; tăng cường mạng lưới trạm quan trắc chất lượng không khí tiêu chuẩn của nhà nước trên phạm vi toàn quốc, ưu tiên cho các tỉnh, thành phố có ô nhiễm không khí. Đồng thời, nhà nước cần có cơ chế chia sẻ dữ liệu (theo thời gian thực, dữ liệu lịch sử), bao gồm cả thông tin đảm bảo/kiểm soát chất lượng tại các trạm nhằm hỗ trợ các nghiên cứu khoa học và giáo dục-truyền thông về ô nhiễm không khí.

Đặc biệt, cần thúc đẩy ứng dụng công nghệ trong quan trắc bụi PM2.5 và các chất ô nhiễm không khí khác. Thúc đẩy đổi mới sáng tạo và sự tham gia của người dân và các cơ quan nghiên cứu khoa học trong giám sát chất lượng không khí; đồng thời cơ quan quản lý nhà nước nên đưa ra hướng dẫn về các thiết bị cảm biến và khuyến nghị cho cộng đồng hiểu về các giá trị đo từ các phương pháp khác nhau, nâng cao trách nhiệm giải trình đối với chất lượng dữ liệu và các kết quả, phân tích từ các dữ liệu này. 

Thái An