Đảm bảo 100% người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo được hỗ trợ tham gia BHYT
Thủ tướng Chính phủ vừa có Quyết định 90/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2021- 2025 với mục tiêu giảm nghèo bền vững, đa chiều.
Theo tờ trình của Bộ LĐ-TB&XH, tổng nguồn vốn thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021- 2025 tối thiểu 75.000 tỷ đồng. Vốn ngân sách Trung ương chiếm 64% (tương đương 48.000 tỷ đồng); vốn ngân sách địa phương gần 12.700 tỷ đồng, còn lại huy động nguồn lực hợp pháp khác. Mục tiêu Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021- 2025 là tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều duy trì ở mức giảm 1-1,5%/năm; tỷ lệ hộ nghèo DTTS giảm trên 3%/năm. Phấn đấu 30% huyện nghèo; 30% xã ĐBKK, vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng nghèo, ĐBKK. Tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm từ 4- 5%/năm.
Chia sẻ với báo chí, ông Tô Đức- Chánh văn phòng Quốc gia về giảm nghèo (Bộ LĐ-TB&XH) cho biết, Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021- 2025 là rất cần thiết, cấp bách. Bởi Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016- 2020 còn hạn chế khi nhiều huyện nghèo, xã vùng bãi ngang ven biển và hải đảo chưa thoát khỏi tình trạng ĐBKK. Các địa phương này là vùng “lõi nghèo”, có địa hình hiểm trở, kinh tế- xã hội và cơ sở hạ tầng còn khó khăn, đặc biệt là tỷ lệ hộ nghèo cao. Một số nơi có tỷ lệ hộ nghèo còn trên 40% như huyện Mường Nhé (Điện Biên), huyện Kỳ Sơn (Nghệ An) hay huyện Đồng Văn (Hà Giang)... “Kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững tại một số địa phương; tỷ lệ tái nghèo, tỷ lệ hộ nghèo phát sinh còn cao do thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh, ốm đau. Bên cạnh đó, phần lớn hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo sống ở vùng nông thôn, có sinh kế, thu nhập không bền vững; thiếu kỹ năng nghề nghiệp...”- ông Đức khẳng định.
Theo đánh giá, Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021- 2025 cùng với hệ thống chính sách giảm nghèo và ASXH góp phần giải quyết mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản. Cụ thể, về chiều thiếu hụt việc làm sẽ đảm bảo 100% NLĐ thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo có nhu cầu được hỗ trợ kết nối, tư vấn, định hướng nghề nghiệp, cung cấp thông tin thị trường lao động, hỗ trợ tìm việc làm. Có ít nhất 100.000 NLĐ thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, vùng nghèo, vùng khó khăn được hỗ trợ kết nối việc làm thành công. Có ít nhất 9.500 NLĐ thuộc các huyện nghèo, xã ĐBKK vùng bãi ngang ven biển và hải đảo được hỗ trợ đào tạo. Trong đó, có khoảng 5.700 lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (ít nhất 80% hộ gia đình có người đi làm việc ở nước ngoài sẽ thoát nghèo). Hỗ trợ 1.200 NLĐ tham gia các khóa đào tạo nghề, nâng cao trình độ ngoại ngữ trước khi đi làm việc ở nước ngoài theo các Hiệp định ký giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước tiếp nhận.
Chiều thiếu hụt về y tế đảm bảo 100% người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo được hỗ trợ tham gia BHYT; giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 16 tuổi tại các huyện nghèo, các xã ĐBKK vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo xuống dưới 34%...
V.Thu