Print

Thuốc chống đông máu Enoxaparin

Thứ Sáu, 30 /12/2022 09:18

Thuốc chống đông máu (chống huyết khối) là các thuốc có thể ngăn cản sự hình thành hoặc làm chậm sự phát triển của các cục máu đông. Các thuốc chống đông máu được sử dụng trong điều trị một số loại bệnh về tim và các tình trạng làm tăng nguy cơ tạo thành các cục máu đông nguy hiểm.

Thuốc chống đông máu có thể sử dụng đường uống hay đường tiêm. Các tác nhân chống huyết khối làm giảm sự hình thành cục máu đông (thrombi) được sử dụng trong điều trị để phòng ngừa hoặc điều trị cục máu đông nguy hiểm (huyết khối cấp tính) là cứu cánh cho nhiều bệnh nhân, đem lại sự hồi sinh cho nhiều người.

Mỗi năm, trên thế giới có khoảng 2-3 triệu người cần đến thuốc chống đông máu để ngăn ngừa sự hình thành và phát triển các cục máu đông, từ đó phòng tránh nguy cơ đau tim, đột quỵ và các hậu quả khác do đông máu gây ra. Thuốc chống đông máu tuy không thể phá vỡ các cục máu đông, nhưng có thể ngăn cản sự hình thành hoặc làm chậm sự phát triển của các cục máu đông.

Việc hình thành cục máu đông hay huyết khối trong tim và não rất nguy hiểm, vì có thể gây ra đau tim hoặc đột quỵ và các biến chứng nguy hiểm khác. Khi bị một số bệnh về tim hoặc mạch máu, hoặc huyết khối tĩnh mạch chi, vừa phẫu thuật hoặc đã được ghép van tim nhân tạo, việc sử dụng các thuốc chống đông máu sẽ đem lại lợi ích rất lớn.

Thực tế lâm sàng hiện nay có 3 nhóm thuốc chống đông máu chính được sử dụng trong điều trị và phòng ngừa các bệnh do đông máu gây ra. Trong đó, các thuốc chống đông máu nhóm Heparin đã có lịch sử từ lâu, xong vẫn là nhóm thuốc được sử dụng đầu tay trong điều trị chống huyết khối. Tùy theo trọng lượng phân tử thấp hoặc trung bình của thuốc có thể gây ra tác dụng nhanh hoặc chậm.

Với khả năng tạo ra tác dụng nhanh chóng, các thuốc chống đông máu nhóm Heparin được dùng trong điều trị và dự phòng các bệnh như: Thuyên tắc phổi, chạy thận nhân tạo, huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới và hội chứng mạch vành cấp. Cần lưu ý, các thuốc chống đông máu nhóm Heparin được dùng với đường tiêm dưới da hoặc tiêm tĩnh mạch, tuyệt đối không được tiêm bắp.

Hiện nay hay dùng thuốc Lovenox bơm tiêm 40mg/0,4ml Natri Enoxaparin. Thuốc này là một Heparin trọng lượng phân tử thấp có hoạt tính chống huyết khối và kháng đông của Heparin tiêu chuẩn đã được phân ly. Nó được dùng để điều trị dự phòng bệnh thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch trong phẫu thuật có nguy cơ trung bình hoặc cao; điều trị dự phòng huyết khối tĩnh mạch sâu trên bệnh nhân liệt giường do bệnh nội khoa cấp tính (suy tim NYHA độ III hoặc IV, suy hô hấp cấp tính, nhiễm khuẩn cấp hoặc rối loạn thấp khớp cấp kết hợp với ít nhất một yếu tố nguy cơ khác của thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch). Ngoài ra, nó còn được dùng để dự phòng đông máu trong tuần hoàn ngoài cơ thể trong khi thẩm phân máu.

Thuốc Natri Enoxaparin đào thải chủ yếu qua thận. Nửa đời thải trừ trong huyết tương, dựa trên hoạt tính kháng yếu tố Xa là từ 4,5 đến 7 giờ, dài hơn 2-4 lần so với Heparin thông thường và không phụ thuộc vào liều, có thể kéo dài khi bị suy thận mạn tính nặng. Ở người cao tuổi, chức năng thận có thể giảm, đào thải thuốc có thể chậm, nhưng những thay đổi này không làm thay đổi liều và lần tiêm thuốc khi chức năng thận bị suy nhẹ.

Thuốc chống chỉ định khi bệnh nhận dị ứng với thành phần của thuốc. Nếu có tiền sử giảm tiểu cầu nghiêm trọng do Heparin hay bệnh nhân có rối loạn đông máu hoặc đang bị chảy máu hoặc có nguy cơ chảy máu không kiểm soát được cũng tuyệt đối không được dùng. Các tác dụng không mong muốn thường gặp như xuất huyết bên trong hoặc bên ngoài ở mức độ nghiêm trọng khác nhau, giảm tiểu cầu trong máu cần được xử trí sớm. Hay gặp nhất là tình trạng vết bầm hoặc tụ máu dưới da tại chỗ tiêm, có thể gây đau, mất tự nhiên mà không cần ngưng điều trị. Khi điều trị kéo dài có thể gây nguy cơ bị loãng xương. Tiêm quá liều có thể gây ra biến chứng xuất huyết, cần xử trí trung hòa bằng cách tiêm tĩnh mạch chậm Protamine. Một liệu trình điều trị thường từ 6-14 ngày.

ThS.Lê Quốc Thịnh