Print

Bệnh phổi mô kẽ và những điều cần biết

Thứ Năm, 02 /03/2023 14:11

Bệnh phổi mô kẽ hay Sarcoidosis là một nhóm bệnh gồm nhiều rối loạn đặc trưng bởi tổn thương nhu mô phổi lan tỏa với đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học, giải phẫu bệnh cũng như tiên lượng khác nhau. Tuy nhiên, trong hầu hết các bệnh phổi mô kẽ, thành phế nang bị thâm nhiễm bởi các tế bào viêm, tế bào xơ và có hiện tượng tăng sinh của các tế bào thành phế nang.

Tuy có hệ thống phân loại phức tạp với nhiều nhóm bệnh khác nhau như bệnh phổi mô kẽ có căn nguyên, bệnh phổi mô kẽ vô căn, bệnh phổi mô kẽ hiếm gặp, nhưng đặc điểm chung của các nhóm bệnh này nếu không được điều trị kịp thời là các tổn thương nhu mô phổi thường không phục hồi và nặng dần theo thời gian, hậu quả cuối cùng trong phần lớn trường hợp đều là quá trình xơ hóa nhu mô phổi, dẫn đến suy giảm chức năng trao đổi oxy với các triệu chứng và biến chứng của bệnh trên lâm sàng.

Mặc dù tỷ lệ mắc của từng bệnh phổi mô kẽ riêng biệt là không cao, nhưng nhìn chung cả nhóm bệnh phổi kẽ gây ảnh hưởng lên một số lượng lớn người bệnh (NB) với tần suất mắc là 76/100.000 dân tại Châu Âu và 74,3/100.000 dân tại Hoa Kỳ. Bệnh phổi mô kẽ liên quan đến bệnh mô liên kết (CTD-ILD) và xơ phổi vô căn (IPF) là những bệnh phổi kẽ xơ hóa phổ biến nhất với tỷ lệ tương ứng là 30,2; 12,1 và 8,2 ca trên 100.000 dân. Tỷ lệ mắc của IPF ước tính là 8 đến 60/100.000 dân, so với các vùng khác của thế giới, tỷ lệ này cao hơn ở Bắc Mỹ và Châu Âu, trong khi tỷ lệ của bệnh phổi mô kẽ cao hơn ở vùng Bắc Âu và trong quần thể người da màu.

Đối tượng dễ mắc bệnh phổi mô kẽ là: Nữ giới ở độ tuổi từ 20- 40 tuổi; Người trưởng thành, người lớn tuổi có nguy cơ mắc bệnh phổi mô kẽ cao hơn so với trẻ em, song đôi khi vẫn có những bệnh nhân nhi; Người sống, làm việc lâu dài trong môi trường không đảm bảo an toàn, chứa nhiều chất hữu cơ, vô cơ, bụi bẩn có thể gây hại cho phổi đều có thể dẫn tới bệnh phổi mô kẽ như sợi amiang, bụi hạt, bụi than, lông vật nuôi, bụi silica, khuôn từ bồn tắm nước nóng hoặc phòng tắm... Đôi khi, một số thuốc điều trị được chức minh gây tác dụng phụ không tốt cho phổi cũng có thể dẫn tới bệnh phổi mô kẽ như thuốc điều trị tim (Amiodarone, Propranolol...), thuốc hóa trị hoặc thuốc miễn dịch (Cyclophosphamide, Methotrexate…), thuốc kháng sinh, tia bức xạ năng lượng cao được dùng trong điều trị ung thư...

Triệu chứng lâm sàng điển hình của bệnh là tình trạng khó thở, tình trạng này sẽ ngày càng nghiêm trọng theo mức độ tổn thương của các tổ chức kẽ trong phổi. Lưu ý, triệu chứng bệnh khác thường xuất hiện muộn và không điển hình như ho ra máu, khó thở khi gắng sức, các triệu chứng ngoài phổi như khó nuốt, viêm khớp, rối loạn thông khí hạn chế lúc nghỉ và khi gắng sức... Ngoài triệu chứng lồng ngực, bệnh nhân có thể xuất hiện các triệu chứng khác như sưng đau khớp, sụt cân, hạch ngoại vi… Nếu bệnh trở nên cấp tính, triệu chứng bệnh nặng lên nhanh chóng, tiến triển chỉ trong vòng vài giờ đến vài ngày có thể gây suy hô hấp cấp nguy hiểm cho sức khỏe.

Để điều trị bệnh phổi mô kẽ cần dựa vào từng ca bệnh cụ thể và quá trình bệnh lý của bệnh nhân, có thể dùng phương pháp độc lập hoặc kết hợp nhiều phương pháp như điều trị bằng thuốc; điều trị bằng oxy; phẫu thuật (với các tổn thương nghiêm trọng, không thể hồi phục, bệnh nhân mắc bệnh phổi mô kẽ có thể phải cấy ghép phổi để kéo dài sự sống, song do nguồn ghép phổi còn hạn chế, nên BS thường thử điều trị bằng các phương pháp khác trước khi quyết định ghép phổi). Tóm lại, bệnh phổi mô kẽ có thể gây ra những tổn thương khó hồi phục, ảnh hưởng lớn đến quá trình hô hấp và sức khỏe của người bệnh; do đó, khi có dấu hiệu nghi ngờ, nên đi khám để được chẩn đoán và điều trị sớm.

Tùng Anh