Print

Một số lưu ý khi sử dụng nhóm thuốc chẹn thụ thể Angiotensin II điều trị tăng huyết áp

Chủ nhật, 23 /04/2023 07:45

Tăng huyết áp (THA) là bệnh lý khá phổ biến trong cộng đồng. Bệnh thường diễn tiến âm thầm; nếu không được điều trị kịp thời, đúng cách sẽ gây ra những biến chứng nguy hiểm có thể đe dọa tính mạng người bệnh hoặc để lại những di chứng nặng nguy hiểm cho sức khỏe.

THA là tình trạng tăng liên tục của huyết áp tâm thu lúc nghỉ (≥130 mm Hg) hoặc huyết áp tâm trương lúc nghỉ (≥80 mm Hg); hoặc cả hai. THA không có nguyên nhân rõ ràng (THA tiên phát) là phổ biến nhất. THA thường do ngưng thở khi ngủ, bệnh thận mạn, tăng Aldosteron nguyên phát, tiểu đường hoặc béo phì.

Thông thường, bệnh không biểu hiện triệu chứng lâm sàng trừ khi huyết áp tăng rất cao hoặc bệnh đã kéo dài. Khi đi khám bệnh cần đo huyết áp và làm các xét nghiệm cần thiết để xác định nguyên nhân, đánh giá tổn thương cơ quan đích và xác định các yếu tố nguy cơ tim mạch khác.

Tùy theo mức độ của bệnh mà thầy thuốc có hướng điều trị thích hợp. Trong thực tế, số đông bệnh nhân THA được hướng dẫn dùng thuốc ngoại trú tại nhà và theo dõi huyết áp của mình bằng máy đo cá nhân.

Hiện nay, phương pháp điều trị bao gồm thay đổi lối sống và dùng thuốc hạ áp, bao gồm: Thuốc lợi tiểu, thuốc chẹn beta giao cảm, thuốc ức chế ACE, thuốc chẹn thụ thể Angiotensin II và thuốc chẹn kênh canxi.

Người bệnh hay dùng thuốc có thể nhận biết 2 nhóm thuốc có tác dụng tương tự nhau rất phổ biến được dùng trong điều trị THA khi đọc tên hoạt chất là:

- Nhóm thuốc ức chế ACE có đuôi tên hoạt chất là pril (Benazepril, Captopril, Enalapril, Fosinopril, Lisinopril, Perindopril, Quinapril, Ramipril, Trandolapril).

- Nhóm thuốc chẹn thụ thể Angiotensin II có đuôi tên hoạt chất là sartan (Azilsartan, Candesartan, Eprosartan, Irbesartan, Losartan, Olmesartan, Telmisartan, Valsartan).

Thuốc ức chế thụ thể Angiotensin II là một nhóm các thuốc có tác dụng làm giãn mạch máu và được dùng trong điều trị bệnh THA, suy tim hoặc bệnh thận ở người bị đái tháo đường. Angiotensin II là một chất gây co mạch. Khi mạch máu bị thu hẹp lại có thể khiến cho huyết áp tăng lên và lưu lượng máu qua thận giảm xuống.

Angiotensin II còn ảnh hưởng đến Noradrenalin (một chất góp phần gây co mạch và tăng nhịp tim), sự bài tiết Aldosterone từ vỏ thượng thận và quá trình tái hấp thu Natri (Na+), giữ nước của thận. Vì vậy, các thuốc ức chế thụ thể Angiotensin II sẽ cạnh tranh vị trí gắn trên các thụ thể của Angiotensin II nằm trong các cơ xung quanh mạch máu để làm hạ huyết áp.

Khi Angiotensin II không gắn kết được với thụ thể, chúng sẽ không biểu hiện được các tác động trên, mạch máu được giãn ra, huyết áp giảm xuống. Từ đó, các triệu chứng suy tim và tiến triển của bệnh thận do đái tháo đường được cải thiện.

Các thuốc ức chế thụ thể Angiotesin II được dùng để kiểm soát THA, điều trị suy tim và ngăn ngừa suy thận ở những người bệnh đái tháo đường hoặc THA. Nó có tác dụng tốt để phòng ngừa bệnh đái tháo đường và giảm nguy cơ đột quỵ ở những bệnh nhân THA và cơ tim phì đại. Ngoài ra, nó còn ngăn ngừa rung nhĩ tái phát.

Hai nhóm thuốc ức chế ACE và nhóm chẹn thụ thể Angiotensin II có tác dụng tương tự nhau, nên chúng thường được sử dụng thay thế cho nhau khi người bệnh không dung nạp hoặc gặp tác dụng phụ, chẳng hạn như bị ho khan khi dùng thuốc ức chế ACE. Người bệnh THA nên đi khám bệnh tại cơ sở y tế và thầy thuốc sẽ chỉ định liều dùng phù hợp cho từng người bệnh, tùy theo loại thuốc sử dụng, bệnh lý điều trị và một số yếu tố liên quan khác.

Một vài tác dụng phụ có khả năng xảy ra khi dùng thuốc này gồm: Chóng mặt, tiêu chảy, khó tiêu, buồn nôn, sưng phù dưới da do giữ nước (phù mạch), đau cơ hoặc xương… Nếu thấy có các triệu chứng trên, cần báo cho thầy thuốc để chọn loại thuốc khác. Tất cả các thuốc ức chế ACE và các thuốc chẹn thụ thể Angiotensin II đều chống chỉ định với phụ nữ có thai, nhất là đầu và cuối thai kỳ.

ThS.Lê Quốc Thịnh