Đổi mới cách tiếp cận trong giảm nghèo
Qua 8 lần ban hành chuẩn nghèo và nỗ lực thực hiện chính sách giảm nghèo, tỷ lệ người nghèo tại Việt Nam đã giảm đáng kể và đã được quốc tế ghi nhận. Song để thực hiện giảm nghèo bao trùm và bền vững, cơ chế chính sách giảm nghèo cần được đổi mới, nhất là tạo việc làm có thu nhập và khuyến khích người nghèo chủ động vươn lên để thoát nghèo.
Trong 5 năm qua, hệ thống chính sách giảm nghèo được ban hành đồng bộ; Chính phủ bố trí nguồn lực lên tới 120.000 tỷ đồng thực hiện chương trình giảm nghèo. Trong đó, nguồn vốn Trung ương chiếm khoảng 35%, vốn huy động xã hội hóa hỗ trợ an sinh xã hội và giảm nghèo của các địa phương chiếm khoảng 41%, vốn ủng hộ Quỹ Vì người nghèo và các hoạt động an sinh xã hội của MTTQ Việt Nam các cấp chiếm khoảng 24%. Nhờ vậy, tỷ lệ hộ nghèo năm 2015 (năm đầu kỳ) là 9,88% giảm xuống còn 2,75% năm 2020 (năm cuối kỳ), đạt chỉ tiêu Quốc hội giao; tỷ lệ hộ nghèo DTTS giảm bình quân 4%/năm; tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm bình quân 5,65%/năm- vượt chỉ tiêu Quốc hội giao. Đặc biệt, nhận thức của người nghèo dần thay đổi, cơ bản không còn ỷ lại, có nhiều tấm gương, điển hình thoát nghèo, tình nguyện xin ra khỏi danh sách hộ nghèo.
Cần khuyến khích người nghèo chủ động thoát nghèo
Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ LĐ-TB&XH, kết quả giảm nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao, chênh lệch giàu- nghèo còn lớn; khoảng cách phát triển giữa các địa phương, vùng miền còn khá lớn; gia tăng bất bình đẳng về thu nhập và mức sống; một số cơ chế chính sách, chương trình giảm nghèo chưa hiệu quả, chưa phù hợp với đặc thù vùng miền. Công tác rà soát, tích hợp văn bản chính sách giảm nghèo, chuyển đổi phương thức hỗ trợ từ “cho không” sang hỗ trợ có điều kiện còn chậm.
Bên cạnh đó, việc giảm nghèo tại vùng “lõi nghèo” có điều kiện kinh tế- xã hội ĐBKK, địa lý hiểm trở, chia cắt, vùng đồng bào dân tộc ít người còn rất cam go. Tình trạng nghèo “thâm căn cố đế”, nghèo từ “tư tưởng” còn là hiện tượng phổ biến do phong tục, tập quán; điều kiện cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông của miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo còn rất khó khăn…
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra mục tiêu “giảm tỷ lệ nghèo đa chiều 1-1,5% hằng năm” và Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2021- 2030 đề ra nhiệm vụ: “Triển khai đồng bộ các giải pháp giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, nhất là khu vực đồng bào DTTS. Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Đổi mới thực chất cách tiếp cận trong giảm nghèo bằng các chính sách hỗ trợ có điều kiện, giảm hỗ trợ cho không, khơi dậy ý chí chủ động vươn lên tự thoát nghèo”. Điều này đặt ra yêu cầu phải đổi mới tư duy, phương thức, chính sách giảm nghèo, nhằm bảo đảm người nghèo được tham gia và thụ hưởng các thành quả của tăng trưởng trong điều kiện mới.
Dự báo tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) tiếp tục duy trì ở mức cao bình quân khoảng 7%/năm; đến năm 2025, GDP bình quân đầu người đạt 4.700-5.000 USD; đến năm 2030 đạt khoảng 7.500 USD. Điều này dẫn đến xu hướng thay đổi nhu cầu của người nghèo, chuyển từ đáp ứng các nhu cầu tối thiểu bảo đảm tồn tại sang đáp ứng các nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống. Khi mức sống tối thiểu tăng lên thì chuẩn nghèo cũng thay đổi, làm tăng tỷ lệ hộ nghèo đầu kỳ. Mặt khác, theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia giai đoạn 2022- 2025, ước tính tháng 1/2022 cả nước có khoảng 16,6% hộ có thu nhập dưới chuẩn nghèo thu nhập, tương ứng với khoảng 4,473 triệu hộ (khoảng 17,447 triệu người). Trong đó, tỷ lệ hộ nghèo là 10,83% (bao gồm 2% hộ nghèo không có khả năng lao động), tỷ lệ hộ cận nghèo là 5,77%. Vì vậy, để giải quyết vấn đề giảm nghèo đòi hỏi sự nỗ lực, vào cuộc mạnh mẽ, toàn diện của cả hệ thống chính trị.
Để đạt được mục tiêu giảm tỷ lệ nghèo đa chiều từ 1-1,5% hằng năm, hạn chế tình trạng tái nghèo và phát sinh nghèo như Nghị quyết Đại hội Đảng đề ra, Chính phủ đưa mục tiêu đến năm 2025 phấn đấu giảm bình quân 1,5 triệu người nghèo/năm, tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào DTTS giảm bình quân trên 3%/năm; 50% huyện nghèo, 50% xã ĐBKK vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng khó khăn. Đến năm 2030, phấn đấu cơ bản các huyện nghèo, xã ĐBKK vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng khó khăn, xây dựng tiêu chí nông thôn mới.
Đồng thời, hoàn thiện phương pháp đo lường nghèo đa chiều có tính đến đặc thù vùng, miền; áp dụng chuẩn nghèo đa chiều quốc gia bảo đảm mức sống tối thiểu và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân; thực hiện BHYT toàn dân, phấn đấu tỷ lệ tham gia BHYT trên 95% dân số, đa dạng mức đóng và mức hưởng. Xây dựng chính sách trợ giúp xã hội đối với hộ nghèo không có khả năng lao động; nghiên cứu, xây dựng chính sách bảo đảm an sinh xã hội tối thiểu, chú trọng chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo và chuyển đổi số trong lĩnh vực giảm nghèo.
Thanh Nghị
- Khẩn trương tổng rà soát tổ chức hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập, biên chế công chức, viên chức sau sắp xếp bộ máy
- Quan tâm chế độ, chính sách đối với tổ chức, cá nhân làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ
- Công ty CP 28 Quảng Ngãi: Giữ chữ tín, vững an sinh
- TP.Hồ Chí Minh và Lâm Đồng thúc đẩy hợp tác, đảm bảo nguồn cung nông sản, thực phẩm
- TP.Hồ Chí Minh: Khám chữa bệnh, phát thuốc, trao tặng thẻ BHYT miễn phí cho người dân phường Long Phước