Chính sách BHYT những năm đầu đổi mới

Thứ Sáu, 22 /11/2024 11:10

Từ năm 1986, quá trình đổi mới cơ chế kinh tế đã tác động tới tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Mặc dù đầu tư của Nhà nước cho y tế tăng nhanh, nhưng trước nhu cầu sử dụng các dịch vụ y tế và thuốc của người dân không ngừng gia tăng, số chi từ ngân sách chỉ đáp ứng được khoảng 50%. Thực tế đó đòi hỏi cơ chế tài chính y tế phải có những thay đổi nhằm tạo thêm kinh phí cho hoạt động y tế ngoài nguồn ngân sách nhà nước.

Từ yêu cầu khách quan đó, ngày 24/4/1989, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định số 45/HĐBT cho phép các cơ sở khám chữa bệnh được thu một phần viện phí. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, việc thu một phần viện phí cũng đã ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế của một bộ phận không nhỏ những người không có khả năng chi trả, nhất là người dân ở khu vực nông thôn, người nghèo, người sống ở những vùng kinh tế- xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn… Đây chính là bối cảnh ra đời BHYT- chính sách nhằm huy động sự đóng góp tài chính từ cộng đồng để tăng cường và nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, dựa trên nguyên tắc “lấy số đông bù số ít”. Ngày 26/10/1990, Hội đồng Bộ trưởng đã có Công văn số 3504/KG đồng ý để một số địa phương thực hiện thí điểm BHYT.

Thẻ Bảo hiểm sức khoẻ tại Hải Phòng (ảnh tư liệu)

Kết quả sau hơn 1 năm thí điểm đã khẳng định BHYT là hướng đi đúng, cơ bản và lâu dài để tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của người dân, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân. Đây cũng là một trong những cơ sở thực tiễn để Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) xác định việc “Phát triển bảo hiểm khám chữa bệnh” bên cạnh phát triển các hoạt động y tế bằng khả năng của Nhà nước và của nhân dân. Nghị quyết số 04/NQ-HNTW ngày 14/1/1993 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân cũng nêu rõ định hướng “phát triển BHYT”.

Từ cuối năm 1990 đến tháng 6/1991, một số địa phương, bệnh viện đã tổ chức thí điểm BHYT với các hình thức khác nhau, như: Bảo hiểm sức khoẻ tại Hải Phòng; Quỹ khám, chữa bệnh BHYT ở Vĩnh Phú; BHYT tự nguyện ở huyện Mỏ Cày (Bến Tre); BHYT tự nguyện ở Quảng Trị; Quỹ khám chữa bệnh tại Bệnh viện Đường sắt; Quỹ bảo trợ y tế tại Bệnh viện Bưu điện...

Trong thời gian này đã có 3 tỉnh, thành phố tổ chức thí điểm BHYT toàn địa bàn là: Hải Phòng, Quảng Trị, Vĩnh Phú; 4 địa phương có cơ quan BHYT cấp tỉnh là: Hải Phòng, Quảng Trị, Phú Yên, Bến Tre.

Ngày 15/4/1992, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội khóa VIII thông qua. Điều 39 Hiến pháp 1992 nêu rõ việc “… thực hiện BHYT, tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khoẻ”. Đây là cơ sở pháp lý rất quan trọng cho việc hình thành hệ thống pháp luật BHYT và thực hiện chính sách BHYT ở nước ta.

Căn cứ Hiến pháp 1992, ngày 15/8/1992, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Điều lệ BHYT (kèm theo Nghị định 299-HĐBT), tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện chính sách BHYT ở Việt Nam. Điều lệ BHYT quy định BHYT là hình thức bắt buộc đối với cán bộ công nhân viên chức tại chức, hưu trí, nghỉ mất sức lao động, chủ sử dụng lao động và người lao động; đồng thời quy định các đối tượng khác tham gia BHYT theo hình thức tự nguyện.

Sau hơn 1 năm thực hiện, thực tế cũng phát sinh một số khó khăn, bất cập. Vì vậy, ngày 6/6/1994, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 47/CP sửa đổi môt số điều của Điều lệ BHYT ban hành kèm theo Nghị định 299-HĐBT.

Cũng trong năm 1994, Quốc hội khóa IX đã thông qua Bộ luật Lao động, trong đó quy định: “Khi ốm đau, người lao động được khám và điều trị tại các cơ sở y tế theo chế độ BHYT”.

Nhằm tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc giáo dục sức khoẻ cho học sinh và để thực hiện Điều lệ BHYT, ngày 19/9/1994, Bộ Giáo dục- Đào tạo và Bộ Y tế đã ban hành Thông tư liên tịch số 14/TTLB hướng dẫn tổ chức BHYT tự nguyện cho học sinh, sinh viên trên phạm vi cả nước.

Triển khai Điều lệ BHYT ban hành kèm theo Nghị định 299-HĐBT, hệ thống tổ chức BHYT trên cả nước đã nhanh chóng được hình thành và đi vào hoạt động, bao gồm cơ quan BHYT Việt Nam (có chi nhánh tại TP.Hồ Chí Minh); cơ quan BHYT 53 tỉnh, thành phố; 4 BHYT các ngành: Giao thông, Dầu khí, Cao su, Than. Nhiều BHYT tỉnh, thành phố đã tổ chức được hệ thống chi nhánh BHYT tại các huyện, khu vực… Trong thời gian này, hệ thống tổ chức BHYT được thành lập từ trung ương đến địa phương. Tại địa phương, BHYT các tỉnh, thành phố trực thuộc ngành dọc (BHYT Việt Nam) nhưng Giám đốc BHYT lại do Giám đốc Sở Y tế bổ nhiệm; BHYT các ngành vừa trực thuộc BHYT Việt Nam, vừa trực thuộc ngành chủ quản. Quỹ BHYT cũng được quản lý phân tán tại các địa phương, chịu sự kiểm tra, giám sát của Hội đồng quản trị do chính quyền tỉnh, thành phố thành lập; không thực hiện được sự điều tiết.