Dự thảo Nghị định quy định về tinh giản biên chế do Bộ Nội vụ chủ trì soạn thảo có nhiều điểm mới so với Nghị định số 29/2023/NĐ-CP của Chính phủ quy định về tinh giản biên chế. Trong đó, Bộ Nội vụ đề xuất, cán bộ, công chức, viên chức không hoàn thành nhiệm vụ 1 năm thuộc đối tượng thực hiện chính sách tinh giản biên chế.
Về đối tượng thuộc diện thực hiện chính sách tinh giản biên chế, Nghị định số 29/2023/NĐ-CP quy định: “Có 2 năm liên tiếp liền kề tại thời điểm xét tinh giản biên chế, cán bộ, công chức, viên chức có 1 năm xếp loại chất lượng ở mức hoàn thành nhiệm vụ và 1 năm không hoàn thành nhiệm vụ nhưng không thể bố trí việc làm khác phù hợp” thì thuộc đối tượng thực hiện chính sách tinh giản biên chế.
Ở lần sửa đổi này, Dự thảo Nghị định mới quy định: “Trong năm trước liền kề hoặc trong năm thực hiện xét tinh giản biên chế xếp loại chất lượng ở mức không hoàn thành nhiệm vụ”. “Để bảo đảm phù hợp với quy định của dự thảo Luật Cán bộ, công chức năm 2024 sắp được ban hành (giải quyết cho thôi việc đối với công chức có 1 năm không hoàn thành nhiệm vụ)”- Bộ Nội vụ lý giải.
Cũng theo Nghị định số 29/2023/NĐ-CP, quy định trường hợp tinh giản biên chế là cán bộ, công chức, viên chức có 2 năm liên tiếp liền kề tại thời điểm xét tinh giản biên chế mà trong từng năm đều có tổng số ngày nghỉ làm việc bằng hoặc cao hơn số ngày nghỉ tối đa do ốm đau theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Luật Bảo hiểm xã hội, có xác nhận của cơ quan BHXH chi trả trợ cấp ốm đau theo quy định hiện hành của pháp luật”.
Trong Dự thảo Nghị định mới, Bộ Nội vụ đề xuất thay bằng quy định: “Trong năm trước liền kề hoặc trong năm thực hiện xét tinh giản biên chế mà có tổng số ngày nghỉ làm việc do ốm đau bằng hoặc cao hơn 300 ngày, có xác nhận của cơ quan BHXH chi trả trợ cấp ốm đau theo quy định hiện hành của pháp luật”. Việc sửa đổi này nhằm để phù hợp với thực tiễn là trong 1 năm có số ngày nghỉ ốm đau nhiều (hơn 300 ngày) thì thuộc đối tượng phải tinh giản biên chế.
Ngoài ra, Dự thảo Nghị định cũng bỏ quy định đối tượng “Cán bộ, công chức, viên chức đang trong thời gian bị kỷ luật nhưng chưa đến mức bị bãi nhiệm hoặc bị buộc thôi việc theo quy định của pháp luật tại thời điểm xét tinh giản biên chế, cá nhân tự nguyện thực hiện tinh giản biên chế, được cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý đồng ý” (điểm h khoản 1 Điều 2 Nghị định số 29/2023/NĐ-CP). Bộ Nội vụ cho rằng, theo quy định của pháp luật, những người bị kỷ luật thì bị đánh giá không hoàn thành nhiệm vụ, do vậy những đối tượng này thuộc đối tượng tinh giản biên chế nêu trên.
Cũng theo đề xuất của Bộ Nội vụ, cách xác định tiền lương để tính hưởng trợ cấp tinh giản biên chế. Cách xác định tiền lương tháng bình quân để tính các mức trợ cấp tinh giản biên chế quy định tại Nghị định số 29/2023/NĐ-CP trên cơ sở kế thừa các quy định của Chính phủ (Nghị định số 132/2007/NĐ-CP ngày 08/8/2007, Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014; Nghị định số 113/2018/NĐ-CP ngày 31/8/2018, Nghị định số 143/2020/NĐ-CP ngày 10/12/2020) đã thực hiện trong khoảng thời gian gần 20 năm. Theo đó, khi xây dựng Nghị định số 178/2024/NĐ- CP, Bộ Nội vụ đã đề nghị tiền lương tháng để tính hưởng chính sách, chế độ là tiền lương tháng liền kề trước khi cán bộ, công chức, viên chức nghỉ việc.
Vì vậy, để đảm bảo tương quan chung về chính sách tinh giản biên chế tại Nghị định này với Nghị định số 178/2024/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 67/2025/NĐ-CP), dự thảo Nghị định đề nghị tiền lương tháng để tính hưởng trợ cấp tinh giản biên chế đối với cán bộ, công chức, viên chức là tiền lương tháng hiện hưởng. Trên cơ sở đó, đề nghị quy định về cách tính tiền lương tháng bình quân và thay cụm từ “tiền lương bình quân” bằng “tiền lương hiện hưởng” ở toàn bộ Dự thảo Nghị định.
Nguyệt Hà