Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, chương trình cải cách quy định kinh doanh của Việt Nam giai đoạn 2020-2025 (theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12/5/2020) đã đạt được những thành tựu giữa kỳ đáng chú ý với việc đơn giản hóa các quy định kinh doanh. Tuy nhiên, Nghị quyết có thể làm tốt hơn bằng cách tiếp cận toàn diện, nhấn mạnh đến việc hợp lý hóa, số hóa và tích hợp dịch vụ từ góc nhìn kinh doanh, đồng thời đặt ưu tiên cải cách các quy định theo hướng thúc đẩy tăng trưởng năng suất…
Báo cáo của WB đánh giá hiệu quả chương trình này nhận định, Việt Nam đã trở thành ngôi sao kinh tế toàn cầu trong 30 năm qua và là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) nhanh nhất thế giới. Từ năm 1990 đến năm 2022, GDP bình quân đầu người của Việt Nam tăng trưởng trung bình hàng năm là 5,4%, nhanh hơn bất kỳ nền kinh tế nào khác trong khu vực (ngoại trừ Trung Quốc và Myanmar). Thành tích vượt trội này được thúc đẩy bởi 3 động cơ tăng trưởng: Tích lũy vốn nhanh; nguồn cung lao động dồi dào và tăng trưởng năng suất cao, được củng cố bởi cải thiện trong môi trường kinh doanh; tăng cường chất lượng nhân lực và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn (FDI).
Nhờ độ mở thương mại và mô hình tăng trưởng theo định hướng xuất khẩu, Việt Nam đã thu hút được lượng lớn vốn FDI vào các phân khúc thâm dụng lao động trong chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu (GVC), đặc biệt là điện tử và dệt may. Sự tăng trưởng nhanh của khu vực tư nhân cũng thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu nhanh chóng, thể hiện qua tỷ lệ việc làm trong nông nghiệp giảm nhanh chóng và sự gia tăng tương ứng về việc làm trong công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, mặc dù năng suất lao động của Việt Nam tăng trưởng nhanh chóng, nhưng mức năng suất vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực. Theo nhóm chuyên gia WB, việc đạt được mục tiêu của Việt Nam là đạt được vị thế quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045 đòi hỏi phải đẩy mạnh tăng trưởng năng suất.
Các phân tích cấp độ doanh nghiệp chỉ ra rằng, phân bổ nguồn lực sai lệch là một hạn chế quan trọng đối với tăng trưởng năng suất ở Việt Nam. Do đó, thực hiện chương trình cải cách các quy định theo Nghị quyết số 68 có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc tái phân bổ nguồn lực từ các doanh nghiệp kém hiệu quả hơn sang các doanh nghiệp có năng suất cao hơn. Chúng cũng có thể giảm chi phí và giảm rủi ro cho doanh nghiệp, đồng thời thúc đẩy đầu tư và tăng năng suất của doanh nghiệp. Cuối cùng, cải cách quy định có thể thúc đẩy sự gia nhập của các công ty mới trong và ngoài nước, đặc biệt là các công ty đổi mới dựa trên công nghệ, sản xuất xanh và năng suất cao và sự rút lui của các công ty năng suất thấp như một phần của quá trình “phá hủy sáng tạo”.
Thực tế cũng cho thấy, những nỗ lực cải cách quy định của Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc hợp lý hóa các quy định kinh doanh và cải thiện chất lượng quy định. Theo Chỉ số Quản trị của Ngân hàng Thế giới, chất lượng quy định của Việt Nam đã có sự cải thiện đáng kể trong 2 thập kỷ qua. Tỷ lệ các công ty dành hơn 10% thời gian để hiểu và hoàn thành các thủ tục hành chính đã liên tục giảm trong những năm gần đây. Tuy nhiên, mặc dù đã cải thiện, điểm chất lượng quy định của Việt Nam vẫn thấp hơn một số nước trong khu vực. Có tới gần 2/3 các công ty khởi nghiệp coi các quy định kinh doanh là một thách thức.
Phân tích dữ liệu cho thấy, các quy định cấp phép và việc cung cấp dịch vụ công không nhất quán là rào cản đối với việc gia nhập thị trường và đổi mới, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh và tăng trưởng của công ty. Ví dụ, việc xin giấy phép xây dựng và giấy phép nhập khẩu ở Việt Nam tốn nhiều thời gian hơn và có đặc điểm là không chắc chắn hơn so với ở Campuchia... Để đẩy nhanh tiến độ, cải cách quy định là một phần quan trọng trong chương trình cải cách thể chế rộng lớn hơn của Việt Nam trong giai đoạn 2021-2030.
Báo cáo của WB cũng phân tích, chương trình cải cách quy định kinh doanh theo Nghị quyết số 68 được xây dựng dựa trên các sáng kiến đơn giản hóa quy định thành công trong 3 thập kỷ qua. Cách tiếp cận được nêu trong Nghị quyết số 68 được lấy cảm hứng từ chương trình hiệu quả nhất trong số này là Đề án 30 (2007-2010). Đề án này đã rà soát hơn 6.000 thủ tục hành chính và tinh gọn hóa các thủ tục này. Cục Kiểm soát Thủ tục hành chính (APCA) thuộc Văn phòng Chính phủ (OOG) cũng được thành lập trong khuôn khổ Đề án 30, với tư cách là cơ quan chính giám sát cải cách quy định ở Việt Nam.
Khi được ban hành, Nghị quyết số 68 đặt mục tiêu đơn giản hóa, cắt giảm 20% các quy định kinh doanh và cắt giảm 20% chi phí tuân thủ trong giai đoạn 2020-2025. Đến nay, Nghị quyết số 68 đã đạt được những thành tựu giữa kỳ đáng chú ý, với việc đơn giản hóa các quy định kinh doanh, theo đó 2.789 quy định được đơn giản hóa hoặc cắt giảm tính đến tháng 12/2023. Các ước tính dựa trên con số đại diện (tức là số lượng quy định hiện có trên Cổng tham vấn và tra cứu quy định kinh doanh tính đến tháng 1/2024) cho thấy rằng, khoảng 22% quy định đã được cắt giảm, đơn giản hóa, vượt mục tiêu của Nghị quyết số 68.
Nghị quyết số 68 áp dụng cách tiếp cận toàn Chính phủ, trong đó các bộ đề xuất các quy định để đơn giản hóa và được thực hiện chủ yếu theo hướng “từ dưới lên”. Theo đó, các bộ đưa ra đề xuất dựa trên đánh giá của mình, kết hợp với sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. “Tuy nhiên, nếu không có tiêu chí rõ ràng để ưu tiên, chẳng hạn như tập trung vào các ngành hoặc lĩnh vực quản lý cụ thể, điều này có thể dẫn đến tác động rải rác. Thay vào đó, những nỗ lực cải cách có thể tập trung vào các quy định nặng nề hơn và các ngành mang tính chiến lược hơn, quan trọng đối với chiến lược tăng trưởng của Việt Nam như điện tử hoặc năng lượng tái tạo”- chuyên gia WB chia sẻ.
Mặc dù có nhiều tiến bộ, nhưng quy định của Việt Nam về số lượng giấy phép phải xin trước và việc ít sử dụng phương pháp cấp phép và kiểm tra dựa trên rủi ro, cũng như thuật ngữ không nhất quán về cấp phép giữa các bộ, ngành đã tạo ra nhiều thách thức về quy định cấp phép. Mặc dù vai trò của các cơ quan chính phủ đã được xác định rõ ràng, do OOG phụ trách điều phối, nhưng vẫn tồn tại những “khoảng trống” trong việc thực hiện Nghị quyết số 68 do nguồn lực hạn chế và cơ chế giải trình còn yếu.
Hơn nữa, Nghị quyết số 68 thiếu các cơ chế về tổ chức ở cấp kỹ thuật cụ thể để điều phối việc đánh giá quy định của nhiều cơ quan trong các lĩnh vực phức tạp, chẳng hạn như xây dựng... Chính phủ Việt Nam- thông qua OOG, đã đầu tư đáng kể vào cải cách quy định và các thông lệ tốt trong 20 năm qua, được hỗ trợ bởi các đối tác phát triển và những hiểu biết toàn cầu. Dù vậy, với những nỗ lực này và các công cụ chuyên dụng cho nhiệm vụ theo Nghị quyết số 68, vẫn có những dấu hiệu về năng lực bị quá tải, mức độ tuân thủ không đồng đều và chất lượng tính toán chi phí tuân thủ giữa các bộ có nhiều khác biệt.
Nghị quyết số 68 khuyến khích các giải pháp kỹ thuật số trong việc cung cấp quy định với những thành tựu quan trọng và tiềm năng nâng cao đáng kể. OOG đã phát triển Cổng Dịch vụ công quốc gia (NPSP) từ năm 2019, cung cấp nền tảng toàn chính phủ với thông tin về thủ tục hành chính và thực hiện dịch vụ công của nhiều bộ và tỉnh khác nhau. Có tiến bộ tốt trong các sáng kiến Chính phủ điện tử, bao gồm nền tảng thanh toán trực tuyến và cung cấp dịch vụ trực tuyến toàn trình ngày càng nhiều hơn…
Có thể nói, Nghị quyết số 68 đã đạt được tiến bộ và được xây dựng dựa trên các thông lệ quản lý tốt, nhưng Việt Nam có thể được hưởng lợi từ một chiến lược hiệu quả hơn nhằm cải thiện đáng kể việc xây dựng và thực hiện quy định. Vì vậy, nhóm chuyên gia WB khuyến nghị, Nghị quyết số 68 nhấn mạnh các mục tiêu định lượng như giảm quy định và chi phí tuân thủ, nhưng Nghị quyết có thể đạt được kết quả tốt hơn nếu được bổ sung tầm nhìn rộng hơn, bao gồm tác động kinh tế, chuyển đổi kỹ thuật số và cải cách cung cấp dịch vụ công.
Theo nhóm chuyên gia, Nghị quyết ssoos 68 đã tập trung vào việc đơn giản hóa các quy định hiện hành và kiểm soát các quy định mới, nhưng có thể làm tốt hơn bằng cách tiếp cận toàn diện, nhấn mạnh đến việc hợp lý hóa, số hóa và tích hợp dịch vụ từ góc nhìn kinh doanh; đồng thời đặt ưu tiên cải cách các quy định theo hướng thúc đẩy tăng trưởng năng suất. Cách tiếp cận mang tính số lượng hiện tại, khiến các cơ quan ưu tiên những cải tiến biệt lập dựa trên các mục tiêu định lượng. Ngoài ra, việc thực hiện không đồng đều giữa các bộ và khoảng trống dữ liệu cản trở việc đánh giá hiệu quả của Nghị quyết…
Khuyến nghị chính sách nhằm cải thiện kết quả của Nghị quyết số 68 nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, chuyên gia WB cho rằng, trước hết, Việt Nam cần ưu tiên nguồn lực vào những lĩnh vực có khả năng đạt được kết quả cao nhất trong ngắn hạn, ưu tiên các lĩnh vực hoặc hoạt động kinh doanh cụ thể được xác định là có cơ hội giảm bớt gánh nặng quy định. Trong trung hạn, áp dụng cách tiếp cận toàn diện để cải cách quy định dựa trên chuyển đổi số trong cung cấp dịch vụ công như một phần của chương trình cải cách tiếp theo (2026-2030). Điều này đòi hỏi phải xây dựng khung chia sẻ dữ liệu chính phủ (eGIF) để chia sẻ và sử dụng lại dữ liệu thông qua các biểu mẫu trên web thống nhất và củng cố nguyên tắc “kỹ thuật số làm đầu” trong khung pháp lý. Các ưu tiên đánh giá có thể dựa trên mức độ phù hợp của ngành (về năng suất, việc làm…); gánh nặng quy định (dựa trên khảo sát và tham vấn khu vực tư nhân); và mức độ phối hợp giữa các cơ quan và năng lực cần thiết cho cải cách.
Những cải cách có tác động mạnh mẽ hơn có thể đạt được trong tương lai, nếu có thể huy động thêm nguồn lực và chuyên môn của khu vực tư nhân, để xem xét và đề xuất các biện pháp cải cách, đặc biệt là trong khuôn khổ ACAPR.
Thái An