Phụ nữ chiếm khoảng 1/3 trong tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài mỗi năm. Họ có đóng góp không nhỏ xét về góc độ kinh tế, song lao động nữ hiện vẫn phải chịu những rủi ro khi làm việc ở nước ngoài bao gồm vấn đề tiền lương thấp, hay thiếu cơ chế bảo vệ...
Việt Nam là quốc gia đứng thứ 2 trong khu vực về số người ra nước ngoài làm việc. Hiện ước tính có khoảng 650.000 người Việt Nam đang làm việc ở hơn 40 quốc gia trên thế giới. Chỉ tính riêng năm 2023 đã có 160.000 người ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng, trong đó phụ nữ chiếm trên 35%. Bên cạnh công việc kỹ thuật, phụ nữ là đối tượng chính trong các công việc chăm sóc và giúp việc gia đình. Lý do và mong muốn khiến nhiều người phụ nữ quyết tâm di cư ra nước ngoài làm việc phần lớn là do kinh tế gia đình khó khăn, mong muốn có thêm thu nhập để có điều kiện cho con cái học hành và đáp ứng các nhu cầu cấp thiết khác của gia đình.
Tại Tọa đàm Di cư an toàn cho phụ nữ Việt Nam ra nước ngoài làm việc trong lĩnh chăm sóc và giúp việc gai đình, bà Khuất Thu Hồng- Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển xã hội thừa nhận, di cư lao động là xu hướng tất yếu không thể tránh khỏi, thậm chí giờ đây cần nhìn nhận ở góc độ toàn cầu. Di cư lao động hiện nay đã có những yếu tố rất khác so với 10- 20 năm trước. Câu chuyện đảm bảo môi trường làm việc an toàn, phẩm giá cho NLĐ là những điều cần chú trọng, mà phụ nữ di cư đi làm công việc chăm sóc và giúp việc gia đình còn đặc thù hơn.
Theo bà Hồng, chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài đã tương đối đầy đủ và hoàn thiện, song với nhóm này dường như vẫn còn khoảng trống. Số lao động đi theo các con đường “rỉ tai” nhau hay phi chính thức vẫn rất lớn, song chưa thể quản lý hết được, nhất là sang các thị trường Thái Lan, Đài Loan (Trung Quốc)… Vì thế, gần như họ không được pháp luật bảo vệ. Trong khi đó, phần lớn số này là phụ nữ ở độ tuổi trung niên đến từ các nông thôn với trình độ học vấn tương đối thấp, không có nghề nghiệp hay kỹ năng xã hội. Do vậy, khi sang nước ngoài làm việc, họ phải đối mặt với rất nhiều vấn đề như làm việc trong thời gian dài (từ 12- 16 giờ/ngày), song không có cách nào để trốn tránh công việc; rủi ro về việc bị bóc lột, lạm dụng; đặc biệt tổn thương về mặt tâm lý.
Bà Nguyễn Mai Thủy- điều phối viên Chương trình Di cư (Tổ chức Lao động Quốc tế) cũng cho rằng, lao động đi làm việc ở nước ngoài trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe giúp việc gia đình không chỉ tạo cơ hội việc làm cho NLĐ mà còn tăng thu nhập, góp phần nâng cao kỹ năng, vị thế. Tuy nhiên, trong quá trình di cư NLĐ cũng đối mặt với những rủi ro kép. “Lao động giúp việc gia đình thường làm việc trong môi trường biệt lập, đa phần không được pháp luật bảo vệ về tiền lương, thời giờ làm việc, nghỉ ngơi, an sinh xã hội. Bản thân họ cũng có nguy cơ bị bóc lột lao động, liên quan đến cưỡng bức, thậm chí mua bán người, song cơ chế khiếu nại còn nhiều hạn chế”- bà Thủy thông tin.
Trong bối cảnh đó, các chuyên gia đã đề xuất, gợi mở nhiều giải pháp để giải quyết các thách thức, khó khăn giúp phụ nữ đi làm việc chăm sóc và giúp việc gia đình ở nước ngoài được an toàn hơn. Là người đã có nhiều năm công tác trong cơ quan quản lý lao động ngoài nước, ông Nguyễn Gia Liêm- nguyên Phó cục trưởng (Cục Quản lý lao động ngoài nước) nhấn mạnh, công tác đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài là định hướng để giải quyết việc làm, tăng nhu nhập nhưng điều quan trọng là thông qua đó còn góp phần đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam ở nước ngoài để sử dụng hiệu quả sau khi về nước.
Theo ông Liêm, việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài trong lĩnh vực giúp việc gia đình thực tế không được khuyến khích song vì NLĐ có nhu cầu nên cần tạo điều kiện, đảm bảo việc đưa đi an toàn. Vấn đề cần chú trọng là trang bị ngoại ngữ, kỹ năng cho NLĐ giúp họ biết cách ứng xử để tự bảo vệ bản thân. Hiện pháp luật đã có các cơ chế hỗ trợ NLĐ song cách thức tổ chức thực hiện ở địa phương, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp cần được nâng cao hơn. Vấn đề quan trọng nữa là tăng cường công tác thanh kiểm tra đối với các doanh nghiệp thực hiện công tác phái cử; xem xét bổ sung thêm quy định về việc doanh nghiệp phải mua BH cho NLĐ với mức tối thiểu khi đi làm việc ở nước ngoài. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần đảm bảo rà soát lại các hoạt động đưa đi, phối hợp với các tổ chức, cơ quan chính quyền địa phương trong công tác giáo dục định hướng cho NLĐ trước khi xuất cảnh. Quan trọng nhất, NLĐ cần biết cách bảo vệ chính mình, trong trường hợp không giải quyết được mới cần sự can thiệp của các cơ quan chức năng.
V.Thu