Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cần hoạch định chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia, xác định rõ cơ cấu ngành nghề, ngành nghề trọng điểm cần chú trọng phát triển.
Theo đánh giá của Bộ LĐ-TB&XH, Việt Nam đang thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là ở các ngành nghề mới, thu hút nguồn đầu tư nước ngoài, các DN FDI. Trong khi đó, các DN FDI là nhóm đầu tư vào các ngành như công nghệ cao nhiều nhất, nên nhu cầu nhân lực chất lượng cao cũng chiếm tỷ lệ lớn hơn. Vì vậy, nếu không có các giải pháp kịp thời để đào tạo lại, đào tạo bổ sung kỹ năng cho NLĐ, thị trường lao động trong nước sẽ đối mặt với nhiều nguy cơ về tụt hậu, khó cải thiện năng suất lao động cũng như năng lực cạnh tranh với các quốc gia khác.
Việt Nam hiện có nguồn lao động rất dồi dào, với 2/3 dân số trong độ tuổi lao động. Song về mặt chất lượng, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu của các DN FDI. Năng lực chuyên môn, tỷ lệ NLĐ đã qua đào tạo còn thấp, nhất là các ngành công nghệ cao, tỷ lệ này chỉ khoảng 1/5 trong tỷ trọng lao động. Bên cạnh đó, cơ cấu nguồn nhân lực cũng chưa phù hợp; tỷ lệ lao động chủ yếu tập trung vào kinh tế, xã hội; tỷ lệ làm trong ngành công nghệ cao, kỹ thuật, khoa học còn ít, trong khi đây mới là những lĩnh vực thu hút vốn FDI lớn nhất. Do vậy, các DN luôn phàn nàn khó tuyển dụng lao động chất lượng cao và Việt Nam chưa có sự “sẵn có” của lao động chất lượng cao trên thị trường. Phần lớn NLĐ sau khi tốt nghiệp ĐH vẫn phải đào tạo lại mới đáp ứng được nhu cầu của DN.
Theo đánh giá của các chuyên gia, quá trình đào tạo trong nhà trường khó có thể đáp ứng ngay yêu cầu của DN, bởi các điều kiện về thực hành, ứng dụng còn hạn chế. Điều này dẫn đến các DN thường phản ánh, ngoài kỹ năng chuyên môn, kỹ năng mềm, khả năng thích nghi với sự thay đổi của NLĐ Việt Nam vẫn chưa thực sự tốt.
Đặc biệt, trong quá trình hội nhập, cuộc cách mạng công nghệ 4.0 diễn ra mạnh mẽ với nhiều xu hướng mới, thì ngoài năng lực chuyên môn, kiến thức liên ngành, NLĐ còn cần có khả năng linh hoạt, thích ứng với sự thay đổi không ngừng, tư duy phản biện, trí tuệ cảm xúc. Bên cạnh đó, các DN cũng đòi hỏi ứng viên cần có kỹ năng phân tích dữ liệu, xử lý thông tin để đưa ra quyết định trong bối cảnh đa dạng các kênh thông tin; khả năng CNTT, vận hành các thiết bị máy móc hiện đại…
Muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quốc gia, PGS-TS.Phạm Thị Bích Ngọc- Trưởng Bộ môn Quản trị Nhân lực (Trường ĐH Kinh tế Quốc dân) cho rằng, trước hết cần xây dựng khung chuẩn năng lực nghề nghiệp. Tại nhiều nước trên thế giới, họ có chuẩn năng lực nghề nghiệp rất rõ, từ đó tham chiếu để biết năng lực của NLĐ đang ở mức nào, cũng như có giải pháp nâng cao năng lực cho NLĐ; trong khi ở nước ta chưa có chuẩn rõ ràng cho các ngành nghề.
Ngoài ra, một số năng lực để ứng dụng lý thuyết vào thực tế của NLĐ còn hạn chế, nên cần thay đổi phương thức đào tạo cũng như nội dung chương trình đào tạo để phù hợp hơn. Các trường cũng cần tăng cường kết nối với DN trong quá trình đào tạo, tăng thời lượng thực hành cho sinh viên; DN tham gia giảng dạy trực tiếp cho sinh viên hoặc đẩy mạnh đào tạo dựa trên các tình huống mang tính thực tiễn, nâng cao năng lực giải quyết vấn đề cho sinh viên.
Về mặt vĩ mô, Nhà nước cần các chính sách giữ chân nguồn lao động chất lượng cao ở lại làm việc trong nước, tránh tình trạng chảy máu chất xám. Bởi có một thực tế là, nhiều sinh viên giỏi đi du học nước ngoài nhưng lại không muốn trở về Việt Nam làm việc. Bên cạnh đó, cần nhìn nhận đầu tư FDI chủ yếu tập trung ở nhóm ngành kỹ thuật, song nguồn nhân lực của thị trường lao động lại đang mất cân đối. Rất ít người học và làm việc trong các lĩnh vực khoa học công nghệ, bởi vậy sự thiếu hụt là đương nhiên.
Ở một tầm nhìn xa hơn, chúng ta cũng cần hoạch định chiến lược về phát triển nguồn nhân lực quốc gia, xác định rõ cơ cấu ngành nghề, ngành nghề trọng điểm cần chú trọng phát triển. Về phía DN, khi tuyển dụng NLĐ bao giờ cũng có đào tạo ban đầu. Tuy nhiên, nói đến phương thức đào tạo hiện nay, phổ biến nhất không phải gửi NLĐ đi học các khóa học, mà cần khuyến khích họ nâng cao khả năng tự học, năng lực chuyên môn. Hiện có khoảng 70% nhân viên trong các DN đều phải tự học, 20% học từ người khác và 10% học từ trường lớp. Chúng ta có khái niệm DN cần xây dựng tổ chức của mình thành tổ chức học tập, tạo dựng môi trường khuyến khích học hỏi, tạo điều kiện học hỏi mọi lúc mọi nơi, điều đó mới thực sự quan trọng.
“Nếu DN không tham gia đào tạo cùng các cơ sở giáo dục, chắc chắn sẽ có khoảng cách nhất định giữa đào tạo và yêu cầu của DN. Nếu có sự kết nối chặt chẽ hơn giữa DN và nhà trường thì bài toán này có thể giải quyết được. Đơn cử, tại Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, với các chương trình về kế toán, nhà trường sẽ tích hợp chứng chỉ nghề vào chương trình đào tạo, trong quá trình đào tạo cũng sẽ mời DN tham gia. Giải pháp này giúp tăng tính thực hành, khả năng ứng dụng để sinh viên ra trường có khả năng thực tiễn tốt hơn, áp dụng lý thuyết vào thực tế dễ dàng hơn, từ đó có thể đáp ứng được yêu cầu của DN”- TS.Ngọc phân tích.
Nguyệt Hà