Thống kê của Bộ LĐ-TB&XH cho thấy, nhờ được bảo đảm quyền tự chủ cho DN trong việc quyết định thang, bảng lương, quỹ tiền lương của NLĐ trong DN Nhà nước tăng ổn định, theo hiệu quả kinh doanh, cải thiện từ 8-10%...
Bộ LĐ-TB&XH tổng hợp báo cáo của 1.166 doanh nghiệp, gồm: 84 công ty mẹ- Tập đoàn Kinh tế, Tổng Công ty 91/TTg; 582 công ty thành viên của Tập đoàn kinh tế, Tổng Công ty 91/TTg; 500 Công ty thuộc UBND cấp tỉnh, với tổng số lao động năm 2023 khoảng 844.500 người.
Kết quả cho thấy về tiền lương của NLĐ năm 2021, tiền lương bình quân chung đạt 16,5 triệu đồng/tháng, thu nhập bình quân đạt 18,5 triệu đồng/tháng. Năm 2022, tiền lương bình quân chung đạt 17,8 triệu đồng/tháng, thu nhập bình quân đạt 20,2 triệu đồng/tháng. Năm 2023, tiền lương bình quân chung đạt 18,5 triệu đồng/tháng, thu nhập bình quân đạt 20,3 triệu đồng/tháng. Riêng 84 công ty mẹ- Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty 91/TTg với khoảng 316.900 lao động, tiền lương bình quân năm 2021 đạt 20,67 triệu đồng/tháng, năm 2022 đạt 22,96 triệu đồng/tháng, năm 2023 đạt 24,5 triệu đồng/tháng.
Xét theo loại hình, ở DN 100% vốn Nhà nước: Năm 2021 tiền lương bình quân đạt 16,83 triệu đồng/tháng, thu nhập đạt 18,58 triệu đồng/tháng. Năm 2022 tiền lương bình quân đạt 17,89 triệu đồng/tháng, thu nhập đạt 19,79 triệu đồng/tháng. Con số này ở năm 2023 lần lượt đạt 18 triệu đồng và 19,44 triệu đồng/tháng.
Đối với công ty có cổ phần, vốn góp chi phối: Năm 2021 tiền lương bình quân đạt 16,22 triệu đồng/tháng, thu nhập đạt 18,49 triệu đồng/tháng. Mức này ở năm 2022 lần lượt đạt 17,75 triệu đồng; 20,68 triệu đồng/tháng; và năm 2023 đạt lần lượt là 19,13 triệu đồng và 21,39 triệu đồng/tháng.
Về tiền lương của người quản lý, Kiểm soát viên, năm 2021 tiền lương bình quân chung đạt 37,92 triệu đồng/tháng, thu nhập đạt 41,46 triệu đồng/tháng. Năm 2022 tiền lương này đạt 39,26 triệu đồng/tháng, thu nhập đạt 43,02 triệu đồng/tháng. Năm 2023, mức này đạt 41,68 triệu đồng và 45,15 triệu đồng/tháng. Riêng 84 công ty mẹ- Tập đoàn kinh tế, Tổng Công ty 91/TTg, tiền lương bình quân năm 2021 đạt 60,45 triệu đồng/tháng, năm 2022 đạt 65,4 triệu đồng/tháng, năm 2023 đạt 63,93 triệu đồng/tháng.
Mức tiền lương và thu nhập của người quản lý, Kiểm soát viên cũng có sự chênh lệch giữa các loại hình doanh nghiệp. Trong đó, đối với DN 100% vốn nhà nước, năm 2021 tiền lương bình quân đạt 31,17 triệu đồng/tháng, thu nhập đạt 34,11 triệu đồng/tháng. Mức này ở năm 2022 lần lượt là 31,95 triệu đồng; 35,09 triệu đồng; và năm 2023 lần lượt đạt 34,31 triệu đồng; 37,35 triệu đồng. Đối với công ty có cổ phần, vốn góp chi phối (người quản lý là người đại diện phần vốn Nhà nước): Năm 2021 tiền lương bình quân đạt 44,35 triệu đồng/tháng, thu nhập đạt 48,47 triệu đồng/tháng; năm 2022 lần lượt đạt 46,21 triệu đồng và 50,57 triệu đồng/tháng; con số này của năm 2023 đạt lần lượt 48,72 triệu đồng và 52,6 triệu đồng/tháng.
Bộ LĐ-TB&XH đánh giá, cơ chế quản lý lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng hiện hành đối với DN nhà nước được điều chỉnh phù hợp với từng mô hình chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước, góp phần thúc đẩy các Tập đoàn, Tổng Công ty, DN tích cực sắp xếp lại tổ chức sản xuất, nâng cao hiệu quả hoạt động. Nhà nước bảo đảm quyền tự chủ cho DN trong việc tuyển dụng, sử dụng lao động; quyết định thang, bảng lương, xếp lương, nâng lương, quỹ tiền lương theo nguyên tắc năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, kinh doanh tăng thì tiền lương tăng và ngược lại. Từ đó, tạo thuận lợi cho DN thiết lập thang giá trị lao động. Tiền lương ổn định và tăng theo hiệu quả kinh doanh của DN, cải thiện 8- 10%/năm. Đồng thời, thực hiện trả lương đối với người lao động theo kết quả, hiệu quả công việc, không hạn chế mức lương tối đa đối với lao động chuyên môn, kỹ thuật cao, các tài năng có nhiều cống hiến cho doanh nghiệp. Điều này tạo thuận lợi cho doanh nghiệp sắp xếp tổ chức lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sản xuất, kinh doanh.
Mặc dù vậy, cơ chế quản lý lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng hiện hành đối với DN nhà nước đang phát sinh một số bất cập. Đơn cử như cơ chế tiền lương đang có sự phân biệt giữa doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước và doanh nghiệp có cổ phần chi phối của Nhà nước. Trong khi, Luật Doanh nghiệp hiện hành quy định DN nhà nước gồm DN do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, và DN do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết. Bên cạnh đó, chính sách tiền lương quy định nguyên tắc chung gắn tiền lương với năng suất lao động và hiệu quả, nhưng chưa có sự phân biệt rõ theo quy mô năng suất, và hiệu quả giữa các DN.
Điều này dẫn đến có chênh lệch khá lớn về tiền lương, nhất là tiền lương của người quản lý giữa các DN ở 2 loại hình DN 100% vốn Nhà nước và DN cổ phần chi phối, giữa ngành nghề, lĩnh vực khác nhau. Chẳng hạn, ngành sản xuất, công nghiệp, tiền lương bình quân của người quản lý khoảng 40- 50 triệu đồng/tháng. Trong khi ở các ngành viễn thông khoảng 60- 90 triệu đồng/tháng; ngành ngân hàng tài chính khoảng 100- 120 triệu đồng/tháng, có DN hiệu quả cao lên đến 200 triệu đồng/tháng. Mặt khác, tiền lương của người quản lý mặc dù đã được điều chỉnh một bước, nhưng vẫn còn thấp so với các chức danh quản lý tương đương trên thị trường, nên chưa tạo được động lực cho những người quản lý giỏi.
Theo thống kê, một số DN trả lương cho người quản lý từ 130- 150 triệu đồng/tháng; ngân hàng thương mại trả 150- 200 triệu đồng/tháng, có trường hợp trả 250- 300 triệu đồng/tháng. Ngoài ra, họ còn được hưởng tiền thưởng theo hiệu quả sản xuất, kinh doanh bằng 30- 50% tiền lương.
Từ thực tế trên, Bộ LĐ-TB&XH cho rằng việc Chính phủ ban hành Nghị định quản lý lao động, tiền lương, tiền thưởng trong DN nhà nước là rất cần thiết để khắc phục những bất cập. Đồng thời, góp phần triển khai thực hiện đầy đủ nội dung cải cách tiền lương đối với DN nhà nước theo Nghị quyết số 27-NQ/TW về cải cách chính sách tiền lương.
Nguyệt Hà