An sinh xã hội là một trong những tiêu chí cơ bản để đánh giá sự tiến bộ của một xã hội, một cộng đồng, một quốc gia. Hướng đến xây dựng hệ thống an sinh xã hội toàn diện, bao trùm, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân luôn được Thành ủy, HĐND, UBND thành phố Hà Nội quan tâm, coi đây là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm và là động lực quan trọng để phát triển kinh tế-xã hội bền vững.
Thực trạng phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, bao phủ, mở rộng trên địa bàn Hà Nội từ năm 2011 đến nay
1.1. Kết quả đạt được
Trong nhiều năm qua, thành phố Hà Nội luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến công tác xây dựng và triển khai thực hiện chính sách an sinh xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị, xã hội. Việc xây dựng, triển khai thực hiện chính sách an sinh xã hội phải bảo đảm nghiêm túc, kịp thời, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Các chính sách, giải pháp bảo đảm an sinh xã hội được triển khai đồng bộ trên các phương diện. Các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện công tác an sinh xã hội được triển khai tích cực, tạo điều kiện cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các đối tượng chính sách xã hội, góp phần hoàn thành nhiệm vụ kinh tế-xã hội của Thủ đô.
* Về giảm nghèo
Thành phố Hà Nội thực hiện tốt công tác giảm nghèo, luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu giảm nghèo đề ra trong các quy hoạch. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ 7,52% đầu năm 2011 xuống còn 0,21% cuối năm 2020. Thành phố áp dụng mức chuẩn nghèo cao hơn khoảng 1,5 đến 1,6 lần chuẩn nghèo quốc gia nhưng luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức mục tiêu đề ra về giảm nghèo ở cả hai giai đoạn 2011-2015 và 2016-2020.
Giai đoạn 2011-2015, thành phố áp dụng chuẩn nghèo cũ, số hộ nghèo đầu năm 2011 là 11.057 hộ (tỷ lệ hộ nghèo là 7,52%). Kết quả giai đoạn 2011-2015, toàn thành phố giảm được 129.092/84.700 hộ nghèo (giảm 5,61%), đạt 152,4% kế hoạch. Giai đoạn 2016-2020, Hà Nội áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, số hộ nghèo đầu năm 2016 là 65.377 hộ (tỷ lệ hộ nghèo là 3,64%), cuối năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 0,21% (giảm 2,09% từ năm 2016-2020).
Biểu đồ 1: Tỷ lệ hộ nghèo của Hà Nội giai đoạn 2011-2020
(Đơn vị: %)
Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội
Theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2016-2020, cuối năm 2021, thành phố còn 956 hộ nghèo, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn khoảng 0,04%[1]. Năm 2021, Hà Nội quy định mức chuẩn nghèo mới giai đoạn 2021-2025[2], chuẩn nghèo của Hà Nội cao hơn mức chuẩn nghèo đa chiều của cả nước[3]. Kết quả tổng rà soát hộ nghèo theo chuẩn nghèo giai đoạn 2022-2025, cuối năm 2021 có: 3.612 hộ nghèo (chiếm 0,16%); 30.176 là hộ cận nghèo (chiếm 1,38%); có 12 quận, huyện không có hộ nghèo theo chuẩn mới (09 quận: Ba Đình, Cầu Giấy, Hà Đông, Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Long Biên, Nam Từ Liêm, Tây Hồ, Thanh Xuân; 3 huyện: Đan Phượng, Gia Lâm, Hoài Đức). Riêng quận Hai Bà Trưng không còn hộ nghèo và hộ cận nghèo[4].
Theo công bố kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2022 theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022-2025 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tỷ lệ nghèo đa chiều của Hà Nội là 0,11%, thấp hơn nhiều lần so với cả nước (7,52%) và vùng đồng bằng sông Hồng (22,32%).
* Về bảo trợ xã hội
Thành phố tích cực thực hiện các chính sách bảo trợ xã hội. Thành phố luôn thực hiện trợ cấp hàng tháng đúng, đủ, kịp thời cho trên 192.000 đối tượng bảo trợ xã hội tại cộng đồng và thực hiện tốt công tác quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng 2.805 đối tượng tại các trung tâm bảo trợ xã hội[5].
Có thể thấy, hệ thống an sinh xã hội Thủ đô ngày càng đồng bộ, hoàn thiện, đối tượng thuộc diện thụ hưởng chính sách an sinh xã hội ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên phù hợp với điều kiện kinh tế của địa phương. Đời sống vật chất, tinh thần của các đối tượng chính sách xã hội, người có hoàn cảnh khó khăn không ngừng được cải thiện. An sinh xã hội đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho người nghèo, đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, góp phần bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển. Đến nay, 100% đối tượng bảo trợ xã hội được cấp thẻ BHYT miễn phí; 100% đối tượng bảo trợ xã hội được hỗ trợ kinh phí do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19; đối tượng đủ điều kiện và có nhu cầu được tiếp nhận vào các trung tâm bảo trợ xã hội; 100% người khuyết tật có nhu cầu và khả năng tự tham gia giao thông được cấp thẻ đi xe bus miễn phí; người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng được cấp thẻ BHYT miễn phí; được cấp xe lăn đối với người khuyết tật vận động...
Mức trợ cấp bảo trợ xã hội của Hà Nội luôn cao hơn cả nước. Mức trợ cấp xã hội của thành phố Hà Nội trong những năm qua luôn triển khai theo đúng quy định của trung ương, đồng thời Hà Nội cũng luôn quy định mức chuẩn trợ cấp xã hội cao hơn mức chuẩn của Trung ương (giai đoạn 2015-2020 là 350.000 đồng; giai đoạn 2021-2025 là 440.000 đồng so với 360.000 đồng[6]).
Đối tượng thụ hưởng chính sách trợ cấp xã hội của Hà Nội luôn được mở rộng hơn so với cả nước. Ngoài các đối tượng được quy định trong Nghị định số 20/2021/NĐ-CP của Chính phủ, thành phố Hà Nội có thêm các đối tượng khác được thụ hưởng chính sách hỗ trợ. Có thể thấy, đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng ngày càng được mở rộng, từ 3 nhóm đối tượng (người già cô đơn, người khuyết tật, trẻ mồ côi) tăng 9 nhóm đối tượng, góp phần giảm bớt khó khăn cho các đối tượng yếu thế của xã hội.
Mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội trên địa bàn Hà Nội được phát triển đa dạng gồm cả công lập và ngoài công lập. Trên địa bàn thành phố có 29 cơ sở trợ giúp xã hội, trong đó: 11 cơ sở công lập trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội; 1 đơn vị công lập trực thuộc UBND quận Đống Đa và 17 cơ sở ngoài công lập đã được cấp phép và đăng ký hoạt động[7]. Có thể thấy, các cơ sở tư nhân cũng có xu hướng tăng từ 10 cơ sở năm 2015 lên 17 cơ sở năm 2021, thể hiện sự thành công bước đầu trong công tác xã hội hóa chăm sóc đối tượng bảo trợ xã hội. Các cơ sở trợ giúp xã hội có địa điểm phân bố rải rác tại 8 quận, huyện trên địa bàn thành phố (huyện Ba Vì 4 đơn vị; quận Cầu Giấy 2 đơn vị; các quận, huyện: Nam Từ Liêm, Hà Đông, Quốc Oai, Ứng Hòa, Đông Anh, Chương Mỹ có 1 đơn vị), tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ TGXH, nhất là người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người khuyết tật, người tâm thần và đối tượng cần sự bảo vệ khẩn cấp.
* Về BHXH (BHXH bắt buộc, BHYT, BHXH tự nguyện)
Thành phố Hà Nội luôn hoàn thành vượt các chỉ tiêu hằng năm về tỷ lệ bao phủ BHYT, tỷ lệ số người tham gia BHXH bắt buộc, BH thất nghiệp và số người tham gia BHXH tự nguyện. Công tác giải quyết chế độ, chính sách BHXH, BHYT được thực hiện kịp thời, đúng quy định. Đảm bảo chi lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng chính xác, an toàn.
Biểu đồ 2: Tỷ lệ bao phủ BHYT, BHXH, BH thất nghiệp của Hà Nội giai đoạn 2013-2021
(Đơn vị: %)
Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội các năm 2015, 2020, 2021
Cụ thể:
* Về tỷ lệ bao phủ BHYT: Năm 2016, đã hoàn thành vượt chỉ tiêu bao phủ BHYT toàn dân đề ra tại Nghị quyết số 21-NQ/TW (chỉ tiêu là đến năm 2020, có 80% dân số tham gia BHYT), hết năm 2020, chỉ tiêu bao phủ BHYT đạt 90,1%. Số người tham gia BHYT tăng từ 4,44 triệu người năm 2011 (chiếm 65,63% dân số) lên 5,8 triệu người vào năm 2016 (tỷ lệ bao phủ BHYT đạt 81,9%) và tăng lên 7,23 triệu người vào năm 2020, tỷ lệ bao phủ BHYT đạt 90,1% (tăng 2,79 triệu người, tăng 62,8% so với năm 2011).
* Về phát triển đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, BH thất nghiệp: Số người tham gia BHXH bắt buộc tăng từ 1.133.717 người năm 2011 lên 1.797.337 vào năm 2020 (tăng 663.620 người, tăng 58,5% so với năm 2011), chiếm 37,59% lực lượng lao động trong độ tuổi lao động. Số người tham gia BH thất nghiệp tăng từ 1.010.551 người năm 2011 lên 1.732.778 người vào năm 2020 (tăng 772.227 người, tăng 71,46% so với năm 2011), chiếm 36% lực lượng lao động trong độ tuổi lao động.
* Về phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện: Số người tham gia BHXH tự nguyện tăng từ 8.126 người năm 2011 lên 48.674 người vào năm 2020 (tăng 40.548 người, tăng 499% so với năm 2011), chiếm 0,81% lực lượng lao động trong độ tuổi.
* Về chăm sóc, bảo vệ trẻ em: Công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em được nâng cao theo hướng bảo đảm các quyền của trẻ em. Hà Nội là một trong những địa phương có tỷ lệ xã, phường phù hợp với trẻ em cao hằng năm, năm 2021, tỷ lệ này của Hà Nội là 89,04% cao hơn 13,54% cả nước (tỷ lệ trung bình cả nước là 75,5%).
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được chăm sóc, trợ giúp bằng nhiều hình thức khác nhau như được hưởng các chính sách theo các nghị định của Chính phủ và chính sách hỗ trợ đặc thù của thành phố trong từng giai đoạn. Tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được chăm sóc, trợ giúp bằng nhiều hình thức khác nhau đều đạt tỷ lệ cao và tăng đều qua các năm (từ 97,3% năm 2011 lên 99,53% năm 2020)[8].
Bảng 1: So sánh số cơ sở trợ giúp trẻ em của Hà Nội với cả nước năm 2021
Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2022), Niên giám thống kê lao động,
người có công và xã hội năm 2021
Hà Nội là địa phương có số cơ sở trợ giúp trẻ em nhiều nhất trong 5 tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương, chiếm 39,2% tổng số cơ sở trợ giúp trẻ em vùng đồng bằng sông Hồng, chiếm 12,5% tổng số cơ sở trợ giúp trẻ em cả nước. Hiện nay, tổng số cơ sở trợ giúp trẻ em của Hà Nội là 55 cơ sở (trong đó, cơ sở công lập là 19 cơ sở, chiếm 34,5%), với tổng số trẻ em trong cơ sở là 2.066 trẻ (chiếm gần 50% tổng số trẻ trong các cơ sở trợ giúp toàn vùng đồng bằng sông Hồng). Mặc dù số lượng cơ sở ngoài công lập chiếm đến 65,5% trong tổng số cơ sở trên địa bàn thành phố, nhưng số trẻ trong các cơ sở này chỉ chiếm 39,5% tổng số trẻ em trong các cơ sở.
* Về chăm sóc người cao tuổi: Toàn thành phố hiện có 926.274 người cao tuổi, chiếm 11,76% tổng dân số. Thành phố đang thực hiện trợ cấp ưu đãi hàng tháng cho 65.635 người cao tuổi có công với cách mạng; 333.798 người cao tuổi hưởng chế độ hưu trí mất sức. Trợ cấp xã hội hàng tháng cho 98.423 người cao tuổi (trong đó: có 93.686 người cao tuổi từ 80 tuổi trở lên không có lương hưu và trợ cấp BHXH, 4.737 người cao tuổi thuộc hộ nghèo không có người có quyền và nghĩa vụ phụng dưỡng, 373 hộ gia đình có người cao tuổi được hỗ trợ về nhà ở, có 102 người cao tuổi cô đơn thuộc hộ nghèo đang được nuôi dưỡng tại Trung tâm Bảo trợ xã hội của thành phố). Công tác chúc thọ, mừng thọ hằng năm được thực hiện theo đúng quy định. Từ năm 2012 đến nay đã có 805.188 người cao tuổi ở các độ tuổi theo quy định được chúc thọ, mừng thọ với tổng kinh phí trên 442 tỷ đồng[9].
* Về chăm sóc người có công: Trong những năm qua, thành phố luôn chú trọng công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm lo đời sống người có công với cách mạng. Toàn thành phố Hà Nội đang thực hiện chế độ chính sách đối với gần 800.000 đối tượng ưu đãi là người có công với cách mạng, trong đó có gần 88.000 người có công và thân nhân người có công đang hưởng trợ cấp thường xuyên, trong đó có khoảng 36.284 người có công được hưởng chế độ điều dưỡng hằng năm và điều dưỡng luân phiên 2 năm/lần.
Trong các năm 2011-2020, đã tiếp nhận và giải quyết 315.372 hồ sơ hưởng chế độ ưu đãi đối với người có công và thân nhân người có công bảo đảm kịp thời, đúng quy định. Thực hiện điều dưỡng phục hồi sức khỏe đối với gần 390.000 lượt người có công (trong đó, điều dưỡng tại trung tâm với gần 130.000 lượt người, điều dưỡng tại nhà với trên 260.000 lượt người)2. Đặc biệt, từ năm 2015, Hà Nội là địa phương đầu tiên của cả nước thành lập Trung tâm Chăm sóc nuôi dưỡng và Điều trị nạn nhân bị nhiễm chất độc da cam/dioxin. Đơn vị thường xuyên chăm sóc, nuôi dưỡng, điều trị cho trên 100 nạn nhân chất độc da cam/dioxin là con đẻ của người bị nhiễm chất độc hóa học trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Bảng 2: So sánh số lượt người hưởng trợ cấp ưu đãi người có công hàng tháng
Đơn vị: Lượt người
Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2022), Niên giám thống kê lao động, người có công và xã hội năm 2021
Hà Nội có số lượt người hưởng trợ cấp ưu đãi người có công hàng tháng cao nhất cả nước. Cũng trong giai đoạn này, phong trào Đền ơn, đáp nghĩa của thành phố đã được các cấp, ngành và toàn thể nhân dân hưởng ứng sâu rộng, kết quả: 100% xã, phường, thị trấn làm tốt công tác Đền ơn đáp nghĩa; 100% Bà mẹ Việt Nam anh hùng còn sống được các cơ quan, đơn vị nhận phụng dưỡng; vận động Quỹ Đền ơn, đáp nghĩa được gần 360 tỷ đồng; tặng trên 56.600 sổ tiết kiệm tình nghĩa với kinh phí trên 55,2 tỷ đồng; tu sửa, nâng cấp 1.490 lượt công trình ghi công liệt sĩ với kinh phí trên 837,1 tỷ đồng; tổ chức Hội nghị gặp mặt, tuyên dương 500 thương binh nặng tiêu biểu toàn quốc vào năm 2019 và Hội nghị gặp mặt 300 đại biểu Bà mẹ Việt Nam anh hùng toàn quốc vào năm 2020. Hàng năm đều tổ chức thăm, tặng quà người có công nhân kỷ niệm Ngày Thương binh, liệt sĩ 27/7, Quốc khánh 02/9, Tết Nguyên đán... bảo đảm chu đáo, thể hiện sự quan tâm của chính quyền Thủ đô đối với người có công và thân nhân người có công với cách mạng trên địa bàn.
Trong giai đoạn 2011-2020, thành phố đã có 12.923 hộ gia đình người có công được hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở với kinh phí 1.422,8 tỷ đồng. Riêng trong năm 2017, thực hiện Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg, ngày 26/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp các sở, ngành liên quan tham mưu UBND thành phố ban hành Kế hoạch số 190/KH-UBND ngày 07/10/2016 về hỗ trợ xây dựng và sửa chữa nhà ở cho người có công với cách mạng thành phố Hà Nội nhân kỷ niệm 70 năm Ngày Thương binh, liệt sĩ. Theo đó, thành phố đã hỗ trợ xây dựng và sửa chữa nhà ở cho 7.178 hộ người có công với cách mạng với kinh phí 1.204,7 tỷ đồng (xây mới 3.676 hộ, sửa chữa 3.502 hộ).
* Về ngân sách dành cho công tác an sinh xã hội
Biểu đồ 3: Chi ngân sách địa phương về chi sự nghiệp bảo đảm xã hội trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2011-2021
Đơn vị: tỷ đồng
Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội các năm 2015, 2020, 2021
Hàng năm, Hà Nội đầu tư nguồn ngân sách lớn cho công tác an sinh xã hội. Theo thống kê, tỷ trọng chi ngân sách nhà nước cho bảo đảm xã hội tăng hằng năm, năm 2011 chiếm 1,7%, năm 2021 chiếm 5,5%/tổng chi thường xuyên ngân sách nhà nước, trong đó bao gồm chi trợ cấp xã hội.
Theo báo cáo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, ngân sách cho các hoạt động an sinh xã hội của Hà Nội tăng từ 1.421,3 tỷ đồng năm 2015 lên 2.037,5 tỷ đồng năm 2021[10]. Tổng số đối tượng được trợ giúp xã hội thường xuyên tăng với mức ổn định từ hơn 170 nghìn người năm 2016 lên hơn 200 nghìn người năm 2021. Xu hướng này kéo theo việc tăng tổng kinh phí thực hiện trợ cấp thường xuyên trong giai đoạn này từ hơn 917 tỷ đồng năm 2016 lên hơn 1,3 nghìn tỷ đồng năm 2021 (tăng 1,4 lần).
Bảng 3: So sánh về tổng số đối tượng và kinh phí trợ giúp xã hội thường xuyên năm 2021
Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2022), Niên giám thống kê lao động, người có công và xã hội năm 2021
Hà Nội là địa phương có tổng số đối tượng và kinh phí trợ giúp đối tượng thường xuyên cao nhất cả nước với 200.426 đối tượng và hơn 1,3 tỷ đồng năm 2021 (chiếm 22,5% đối tượng và 23,8% kinh phí của toàn vùng đồng bằng sông Hồng).
1.2. Hạn chế, khó khăn và nguyên nhân
So với yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của Thủ đô, hệ thống an sinh xã hội của Thủ đô vẫn còn một số hạn chế, bất cập cơ bản sau:
Một là, do tốc độ đô thị hóa nhanh, di cư tự do, dịch chuyển việc làm gây áp lực cho khu vực đô thị trong việc cung cấp các dịch vụ xã hội và bảo đảm quyền thụ hưởng chính sách an sinh xã hội của người dân, đặc biệt là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương. Thực tế cho thấy, độ bao phủ đối tượng bảo trợ xã hội còn thấp, nhiều đối tượng có hoàn cảnh khó khăn nhưng chính sách bảo trợ xã hội chưa với tới được, một phần do nguồn lực để thực hiện an sinh xã hội còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách Nhà nước.
Hà Nội không chỉ thực hiện chính sách an sinh cho người Hà Nội mà còn phải bảo đảm an sinh cho lượng lớn dân số tạm trú trên địa bàn, lực lượng di dân tự do ngày càng tăng tại Hà Nội đã tạo gánh nặng cho các chương trình bảo trợ xã hội, làm tăng tổng chi phí công tác bảo trợ xã hội của thành phố hằng năm[11]. Đặc biệt, một lượng lớn người di cư là trẻ em, người cao tuổi, ngoài độ tuổi lao động, thuộc nhóm đối tượng yếu thế, cần được chăm sóc, nuôi dưỡng sẽ tạo áp lực lớn cho các chương trình bảo trợ xã hội của thành phố, làm tăng quỹ bảo trợ xã hội, quỹ lương hưu, quỹ chăm sóc người cao tuổi. Có thể thấy, gánh nặng an sinh xã hội của Hà Nội lớn hơn nhiều so với các tỉnh, thành khác, do vậy, đòi hỏi nguồn lực lớn để Thủ đô có thể bảo đảm hệ thống an sinh xã hội toàn diện, bao phủ.
Hai là, hệ thống BHXH, BHYT, BH thất nghiệp còn hạn chế, chưa được tuân thủ nghiêm. Đối tượng tham gia BHXH, BHYT bắt buộc tăng hằng năm nhưng chưa tương xứng với tiềm năng. Số người tham gia BHXH tự nguyện còn thấp, nguyên nhân chính là do khả năng tài chính để tham gia BHXH tự nguyện của đa phần người lao động tự do và nông dân chưa ổn định. Năm 2020, nhiều đơn vị, doanh nghiệp không đủ khả năng thực hiện đóng nộp BHXH cho người lao động dẫn đến số nợ BHXH trên địa bàn thành phố tăng cao.
Ba là, cơ sở hạ tầng các cơ sở bảo trợ xã hội, chăm sóc người có công hiện nay xuống cấp. Về nhân lực của các cơ sở, có nơi còn thiếu về số lượng so với định mức nuôi dưỡng. Cán bộ, nhân viên vẫn còn người chưa qua đào tạo nghề công tác xã hội, đặc biệt thiếu bác sĩ chăm sóc; nhân viên thiếu kỹ năng và phương pháp chăm sóc khoa học; thiếu kỹ năng đưa đối tượng hòa nhập với cộng đồng, đặc biệt với các nhóm đối tượng trẻ em khuyết tật, tự kỷ. Công tác xã hội hóa các nguồn lực để chăm sóc, nuôi dưỡng các đối tượng bảo trợ xã hội còn nhiều khó khăn, nhất là các đối tượng người tâm thần, người cao tuổi không nơi nương tựa. Việc xã hội hóa phát triển cơ sở trợ giúp xã hội ngoài công lập trên địa bàn thành phố rất hạn chế.
Bốn là, công tác giảm nghèo chưa thật bền vững. Khoảng cách giàu - nghèo giữa thành thị và nông thôn của Hà Nội vẫn còn khá lớn. Theo kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2022[12], các địa phương có tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo cao đa phần đều là các huyện vùng đồng bào dân tộc thiểu số như: Ba Vì (tỷ lệ hộ nghèo 0,57%, hộ cận nghèo chiếm 2,49%), Mỹ Đức (tỷ lệ hộ nghèo chiếm 0,33%, tỷ lệ hộ cận nghèo chiếm 2,69%); Chương Mỹ (tỷ lệ hộ nghèo chiếm 0,27%, tỷ lệ hộ cận nghèo chiếm 2,05%), Thạch Thất (tỷ lệ hộ nghèo chiếm 0,11%, tỷ lệ hộ cận nghèo chiếm 3,36%) và Quốc Oai (tỷ lệ hộ nghèo chiếm 0,08%, tỷ lệ hộ cận nghèo chiếm 2,05%). Có thể thấy, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo ở 5 huyện vùng đồng bào dân tộc thiểu số đều cao hơn so với tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo khu vực nông thôn (0,17% và 1,72%) và cao hơn nhiều so với tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo toàn thành phố (0,095% và 0,99%).
Năm là, tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn, ở vùng đô thị hóa và thất nghiệp ở thành thị còn nhiều. Nguồn lực để thực hiện an sinh xã hội còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, với diện bao phủ và mức hỗ trợ thấp, chưa theo kịp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khả năng cân đối giữa nguồn và sử dụng của hệ thống an sinh xã hội, kể cả các quỹ BHXH, BHYT và các chế độ bảo trợ xã hội còn hạn chế và gặp thách thức lớn cả trước mắt, cũng như trong trung và dài hạn.
Sáu là, các nhóm đối tượng của an sinh xã hội ngày càng đa dạng, đòi hỏi phải có một hệ thống chính sách an sinh xã hội đa tầng, đa lớp, linh hoạt và đủ khả năng thực hiện những mục tiêu an sinh xã hội. Bên cạnh đó, xu thế già hóa dân số đã và đang đặt ra nhiều khó khăn cho hệ thống an sinh xã hội hiện tại và trong tương lai, tạo áp lực lớn lên hệ thống y tế, BHXH, các dịch vụ chăm sóc xã hội cho người cao tuổi.
Một số giải pháp nhằm phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, bao phủ, mở rộng trên địa bàn Hà Nội
Để phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, bao phủ, mở rộng, góp phần nâng cao đời sống người dân Thủ đô, thời gian tới, thành phố Hà Nội cần triển khai thực hiện một số công việc sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh tổ chức triển khai Chương trình phát triển hệ thống an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân Thủ đô theo Chương trình 08-CTr/TU của Thành ủy Hà Nội khóa XVII; Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 5/5/2022 của Bộ Chính trị “về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội”. Gắn việc thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ của chương trình này với việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn của từng ngành, địa phương.
Thứ hai, tiếp tục phát triển thị trường lao động, tạo việc làm bảo đảm thu nhập tối thiểu cho người dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tập trung đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của quá trình chuyển đổi số quốc gia, hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Phát triển thị trường lao động cạnh tranh lành mạnh, đồng bộ, hiện đại, hội nhập và có sự quản lý, kiểm soát, điều tiết của Nhà nước, hướng đến việc làm bền vững; quan tâm giải quyết việc làm cho thanh niên, lao động trung niên, lao động yếu thế và lao động nữ; xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ.
Thứ ba, thực hiện đồng bộ các giải pháp mở rộng vững chắc diện bao phủ BHXH, BHYT, BH thất nghiệp, hướng tới mục tiêu BHXH, BHYT toàn dân. Tăng cường các giải pháp, biện pháp khắc phục tình trạng nợ đóng, trốn đóng BHXH để bảo đảm các quyền lợi, chế độ về BHXH, BHYT, BH thất nghiệp cho người lao động; tập trung thực hiện kiểm soát chi phí khám, chữa bệnh BHYT chặt chẽ; tăng cường phòng, chống lạm dụng, trục lợi quỹ BHXH, BHYT.
Thứ tư, triển khai thực hiện đồng bộ các chính sách, giải pháp giảm nghèo nhanh, bền vững, nhân rộng các mô hình giảm nghèo hiệu quả. Giúp hộ nghèo tăng khả năng tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản, cải thiện sinh kế, có thu nhập ổn định và nỗ lực vươn lên thoát nghèo bền vững. Ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ giảm nghèo, trong đó tập trung nguồn lực, ưu tiên hỗ trợ hộ nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi.
Thứ năm, phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân, mở rộng đối tượng thuộc diện thụ hưởng chính sách, đối tượng bảo trợ xã hội, từng bước giảm độ tuổi người cao tuổi được hưởng trợ cấp xã hội, nâng mức trợ cấp xã hội, mức hỗ trợ hằng tháng phù hợp với tình hình phát triển - xã hội và khả năng cân đối ngân sách của thành phố. Chủ động bố trí nguồn lực và tăng khả năng tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản: giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin, dạy nghề, trợ giúp pháp lý, phương tiện công cộng… Thực hiện chăm sóc sức khỏe và BHYT toàn dân; nâng cao chất lượng dân số, chất lượng y tế cơ sở và y tế dự phòng. Trợ giúp kịp thời cho các cá nhân, hộ gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, gặp rủi ro. Khuyến khích các mô hình, sáng kiến trong cộng đồng về xây dựng và củng cố mạng lưới an sinh xã hội phi chính thức.
Thứ sáu, phát triển hệ thống dịch vụ xã hội đa dạng, linh hoạt cả về chất lượng và số lượng theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, đáp ứng nhu cầu và khả năng tiếp cận của các nhóm đối tượng, nhất là đối tượng yếu thế, người dân tộc thiểu số.
Thứ bảy, triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách xã hội, bố trí ngân sách địa phương ủy thác qua Ngân hàng Chính sách xã hội hằng năm để bổ sung nguồn vốn cho vay đáp ứng nhu cầu của hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác, góp phần tạo nên việc làm, thu nhập ổn định, nâng cao chất lượng sống của nhân dân.
Thứ tám, triển khai thực hiện có hiệu quả Luật Trẻ em, các nghị quyết của Quốc hội có nội dung liên quan; các nghị định, quyết định của Chính phủ; chương trình công tác của Thành ủy và kế hoạch của UBND thành phố nhằm bảo đảm 100% trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt theo quy định của Luật Trẻ em được chăm sóc, trợ giúp bằng nhiều hình thức khác nhau.
Có thể thấy, chính sách bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội của Đảng và Nhà nước ta đã mang lại những thành công lớn, nhất là trong bối cảnh thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp. Hệ thống an sinh xã hội với các chính sách cụ thể vẫn là một trong những công cụ hữu ích để bình ổn xã hội, góp phần cải thiện đời sống cho nhân dân Thủ đô thời gian tới.
Nguyễn Quốc Tuấn - Hiệu trưởng Trường Đào tạo nghiệp vụ BHXH (BHXH Việt Nam)
[1]. Báo cáo số 314/BC-SLĐTBXH, ngày 19/01/2022 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội về “Đánh giá tình hình thực hiện công tác lao động, người có công và xã hội năm 2021; phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2022”.
[2]. Quyết định số 13/2021/QĐ-UBND, ngày 05/9/2021 của UBND thành phố Hà Nội về việc quy định chuẩn nghèo đa chiều của thành phố Hà Nội giai đoạn 2021-2025.
[3]. UBND thành phố quy định rõ 2 tiêu chí đo lường nghèo đa chiều, áp dụng trên địa bàn thành phố. Cụ thể, tiêu chí về thu nhập đo lường nghèo đa chiều ở khu vực nông thôn là 2 triệu đồng/người/tháng; khu vực thành thị là 2,5 triệu đồng/người/tháng. Tiêu chí mức độ thiếu hụt các dịch vụ cơ bản, gồm: Các dịch vụ xã hội cơ bản (việc làm, y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt và vệ sinh, thông tin); các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản (việc làm, người phụ thuộc trong hộ gia đình, dinh dưỡng, BHYT, trình độ giáo dục của người lớn, tình trạng đi học của trẻ em...); dịch vụ xã hội cơ bản, chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ cơ bản và ngưỡng thiếu hụt trong chuẩn nghèo đa chiều.
[4]. Quyết định số 678/QĐ-UBND, ngày 21/02/2022 của UBND thành phố Hà Nội về Phê duyệt kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo cuối năm 2021 theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022-2025 thành phố Hà Nội.
[5]. Theo Báo cáo số 4871/BC-SLĐTBXH, ngày 30/10/2020 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội về “Kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành năm 2020; phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2021”.
[6]. Nghị quyết 09/2021/NQ-HĐND, ngày 23/9/2021 của HĐND thành phố Hà Nội quy định mức chuẩn trợ giúp xã hội và đối tượng bảo trợ xã hội của thành phố Hà Nội; Nghị định số 20/2021/NĐ-CP, ngày 15/3/2021 của Chính phủ về quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội.
[7]. Văn bản số 3157/SLĐTBXH-VP, ngày 05/8/2022 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội về việc báo cáo quy hoạch ngành lao động, người có công và xã hội phục vụ công tác lập quy hoạch Thủ đô.
[8]. Báo cáo số: 3906/BC-SLĐTBXH, ngày 05/7/2021 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội về Kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 06/01/2012 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô giai đoạn 2011-2020.
[9], 2. Báo cáo số: 3906/BC-SLĐTBXH, ngày 05/7/2021 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội về Kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 06/01/2012 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô giai đoạn 2011-2020.
[10]. Văn bản số 1305/SLĐTBXH-VP, ngày 01/4/2022 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội về việc cung cấp thông tin, số liệu phục vụ Báo cáo đánh giá tác động chính sách đề xuất xây dựng Luật Thủ đô (sửa đổi).
[11]. Theo số liệu thống kê, đối với di dân lâu dài, giai đoạn 2015-2020 Hà Nội tiếp nhận khoảng 354,9 nghìn người, bình quân mỗi năm tiếp nhận 59,15 nghìn người. Như vậy, số người di dân lâu dài vào Hà Nội giai đoạn 2015-2020 chiếm 4,3% dân số Hà Nội tính đến cuối năm 2020. Đối với di dân tạm thời, giai đoạn 2015-2020, bình quân hằng năm Hà Nội tiếp nhận 317,97 nghìn người, chiếm 3,9% dân số Hà Nội tính đến cuối năm 2020.
[12]. Quyết định số 337/QĐ-UBND, ngày 12/01/2023 của UBND thành phố Hà Nội về Phê duyệt kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo cuối năm 2022.