Tuổi thọ cao hơn là một thành tựu của sự phát triển kinh tế xã hội lâu dài ở khu vực châu Á và Thái Bình Dương, nhưng nó cũng đặt ra những thách thức mới. Có tới 40% số người trên 60 tuổi tại châu Á và Thái Bình Dương không có bất kỳ hình thức lương hưu nào, trong đó phụ nữ bị ảnh hưởng lớn hơn do họ thường phải làm các công việc gia đình không được trả lương...
Già hóa dân số đe dọa giảm phúc lợi tuổi già
Báo cáo Già hóa lành mạnh ở châu Á: Báo cáo chính sách phát triển châu Á, được Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) vừa công bố cho thấy, nhiều người không có lương hưu hoặc trợ cấp an sinh tuổi già đầy đủ trong khu vực châu Á- Thái Bình Dương, Do đó, rất nhiều người lớn tuổi trong khu vực không có lựa chọn nào khác ngoài việc đi làm sau tuổi nghỉ hưu để duy trì cuộc sống. Có tới 94% lao động từ 65 tuổi trở lên trong khu vực được tuyển dụng trong khu vực phi chính thức. Thực tế là NLĐ phi chính thức được hưởng rất ít hoặc không được nghỉ phép có lương, trợ cấp khuyết tật hoặc được hưởng lương hưu.
Nguyên nhân của tình trạng này, theo Báo cáo, nhiều người có rất ít sự lựa chọn ngoài việc làm việc miễn là sức khỏe của họ cho phép. Phụ nữ có thể sống lâu hơn nam giới nhưng lại dễ mắc bệnh tật hơn và do đó phải đối mặt với tình trạng bất an khi về già. Thời gian dành cho việc nhà và chăm sóc gia đình hạn chế cơ hội kinh tế của phụ nữ và khiến họ dễ bị tổn thương hơn khi về già... Việc làm phi chính thức tràn lan và tình trạng bất bình đẳng giới nghiêm trọng càng cản trở phúc lợi ở tuổi già.
“Bất chấp những tiến bộ đáng kể về kinh tế và xã hội trong việc giảm nghèo ở người cao tuổi, sự mở rộng nhanh chóng của nhóm dân số này trong khu vực châu Á- Thái Bình dương đòi hỏi những chính sách chủ động và phù hợp để đảm bảo họ già đi một cách an toàn”- Báo cáo nhấn mạnh.
Tuổi thọ cao hơn là một thành tựu của sự phát triển kinh tế xã hội lâu dài ở khu vực châu Á và Thái Bình Dương, nhưng nó cũng đặt ra những thách thức mới. Trong khi những người lớn tuổi, từ 60 tuổi trở lên, chiếm 13,5% dân số khu vực vào năm 2022, thì con số đó dự kiến sẽ tăng gần gấp đôi lên 25,2% vào năm 2050. Tốc độ thay đổi ở các nền kinh tế như Hàn Quốc và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thậm chí còn vượt xa các dự đoán trước đó khi tỷ lệ sinh giảm mạnh. Mối lo ngại trong khu vực là nguy cơ dân số sẽ già đi trước khi tích lũy đủ nguồn lực để hỗ trợ đầy đủ cho tuổi già của mình. Tốc độ già hóa dân số chưa từng có ở châu Á và Thái Bình Dương cũng sẽ đe dọa nhiều hơn đến các nước có thu nhập thấp hơn, so với các nền kinh tế tiên tiến.
Dữ liệu hiện có từ 22 nền kinh tế ở châu Á đang phát triển cho thấy: Tỷ lệ nghèo cùng cực ở những người trên 65 tuổi đã giảm từ 13,1% trong giai đoạn 2010-2015 xuống còn 3,2% trong giai đoạn 2016-2022. Sự cải thiện này phản ánh tình trạng giảm nghèo ở tất cả các nhóm tuổi trong khu vực. Tỷ lệ nghèo tuyệt đối ở người cao tuổi cũng đã giảm nhưng tỷ lệ nghèo tương đối vẫn còn đáng kể. Tại nhiều nền kinh tế trong khu vực, tỷ lệ nghèo tương đối ở nhóm người cao tuổi cao hơn tỷ lệ nghèo trung bình toàn bộ dân số...
Lương hưu: Đảm bảo an ninh kinh tế khi già hóa dân số
Theo ADB, già hóa dân số có thể làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng do mở rộng khoảng cách thu nhập ngay giữa những người lớn tuổi, và giữa họ với những người trẻ tuổi. Nghiên cứu cho thấy, NLĐ lớn tuổi chỉ có trình độ tiểu học thường vẫn tiếp tục tham gia thị trường lao động ngoài độ tuổi nghỉ hưu theo luật định. Tính trung bình ở các nền kinh tế được khảo sát, NLĐ chưa hoàn thành trình độ tiểu học có xu hướng nghỉ hưu muộn hơn 2 năm so với những người có trình độ trung học phổ thông và đại học.
Mô hình tham gia lực lượng lao động khác biệt theo trình độ học vấn này cho thấy: những NLĐ có trình độ học vấn cao, những người có lương hưu liên quan đến việc làm hoặc các tài sản hưu trí khác có thể yên tâm tận hưởng cuộc sống nghỉ hưu; trong khi những NLĐ có trình độ học vấn thấp hơn tiếp tục làm việc khi cần thiết vì họ không có sự hỗ trợ như vậy để dừng lao động. Trong khi đó, những thách thức về sức khỏe thể chất và tinh thần trở nên gay gắt hơn theo tuổi tác. Người cao tuổi phải đối mặt với gánh nặng dai dẳng của bệnh tật do lối sống và tỷ lệ cô đơn và cô lập xã hội ngày càng tăng, điều này càng trở nên trầm trọng hơn do không được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ thiết yếu như sức khỏe và chăm sóc dài hạn...
Báo cáo cũng chỉ ra rằng: trợ cấp từ gia đình vẫn là nguồn hỗ trợ thu nhập chính cho nhiều người lớn tuổi. Bất chấp sự thay đổi dần dần theo hướng sắp xếp cuộc sống độc lập hơn, người cao tuổi trong khu vực vẫn phụ thuộc nhiều vào trợ cấp và các hình thức hỗ trợ khác từ gia đình họ. Những khoản tài chính này chiếm ít nhất 1/3 thu nhập của người cao tuổi ở hầu hết các nền kinh tế châu Á, và thường chiếm tới hơn 2/3 nguồn thu nhập. Trong khi đó, việc thay đổi các chuẩn mực xã hội có thể làm thay đổi những "truyền thống" này trong tương lai, khiến sự chủ động trong việc chuẩn bị nguồn tài chính dưỡng già ngày càng trở nên quan trọng để giúp người cao tuổi thoát khỏi đói nghèo.
Lương hưu từ quỹ BHXH có độ bao phủ thấp, dựa trên các cuộc khảo sát với tỷ lệ bao phủ lương hưu trung bình trong khu vực đạt khoảng 19%. Ở nhiều nền kinh tế, mức độ bao phủ đối với phụ nữ và cư dân nông thôn thấp hơn đáng kể. Độ bao phủ thấp phần lớn phản ánh mức độ phổ biến của tình trạng phi chính thức. Do đó, trợ cấp hưu trí xã hội là một giải pháp phổ biến đối với tỷ lệ bao phủ lương hưu chính thức thấp. Không dưới 28 trong số 35 nền kinh tế được khảo sát ở châu Á đang phát triển hiện có chế độ trợ cấp hưu trí xã hội. Độ bao phủ của trợ cấp hưu trí xã hội cao hơn đáng kể so với lương hưu mà NLĐ đóng góp, trung bình bao phủ 46% người cao tuổi. Những khoản trợ cấp này bao gồm một số hoạt động tái phân phối thu nhập, với mức độ bao phủ cao nhất ở các nhóm giàu nghèo nhất (đạt hơn 30% ở các nền kinh tế được khảo sát)...
Báo cáo của ADB khuyến nghị, lương hưu sẽ đóng vai trò lớn hơn trong an ninh kinh tế khi châu Á già đi. Các chính phủ nên mở rộng phạm vi bao phủ lương hưu từ quỹ BHXH đến NLĐ phi chính thức và tăng cường bao phủ trợ cấp hưu trí xã hội cho những người già nghèo hơn. Đối với lương hưu mà NLĐ đóng góp, ưu tiên chính sách hàng đầu là đưa ra các chương trình phù hợp với sự đóng góp tự nguyện của NLĐ phi chính thức; mở rộng phạm vi bao phủ trong khu vực chính thức, và tăng phúc lợi cho những người đóng góp có thu nhập thấp thông qua tái phân phối trong các chương trình. Cải cách cần chú ý tới khía cạnh giới trong thiết kế chương trình. Các nền kinh tế thiếu lương hưu xã hội nên xem xét áp dụng chúng. Cuối cùng, hệ thống lương hưu có thể được thực hiện hiệu quả và hiệu quả hơn bằng cách áp dụng các công cụ hành chính, và thiết kế lương hưu linh hoạt như tự động điều chỉnh phúc lợi dựa trên các chỉ số kinh tế và nhân khẩu học, giới thiệu thanh toán kỹ thuật số và đăng ký tự động, cũng như tận dụng công nghệ và nâng cao nhận thức cho người dân...
Thái An