Ngày 4/12, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Hội nghị được tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến, từ điểm cầu Trung ương tại Phòng họp Diên Hồng (Nhà Quốc hội) kết nối với các điểm cầu của Tỉnh ủy, Thành ủy, Đảng ủy trực thuộc Trung ương và đường truyền mở rộng đến cơ sở.
Dự và chỉ đạo Hội nghị có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng; Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Thường trực Ban Bí thư, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng truyền đạt Nghị quyết 43-NQ/TW
Hội nghị được kết nối tới 16.242 điểm cầu các ban, bộ, ngành, đoàn thể, đơn vị ở Trung ương và các địa phương trên toàn quốc; có hơn 1.441.200 cán bộ, đảng viên tham dự nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết.
Tại Hội nghị, các đại biểu đã nghe Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng truyền đạt chuyên đề "Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc".
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cho biết các lý do rất quan trọng để Trung ương ban hành nghị quyết 43. Theo đó, sau 20 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 23/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã hoàn thành mục tiêu cơ bản, giải pháp mà nghị quyết đã đề ra. Tuy nhiên, vấn đề phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề xuyên suốt, lâu dài nên phải có nội dung, nhiệm vụ, giải pháp cho vấn đề này trong tình hình mới.
Theo đó, Đảng ta tiếp tục khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, đường lối chiến lược quan trọng, xuyên suốt của Đảng; nguồn sức mạnh to lớn, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nền tảng vững chắc của đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo; là mối quan hệ bền chặt giữa Đảng và Nhân dân, là niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ; là đoàn kết trong Đảng, đoàn kết giữa các giai tầng xã hội, giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam, giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa những người theo các tôn giáo khác nhau, giữa người Việt Nam ở trong và ngoài nước; là đoàn kết giữa Nhân dân Việt Nam và Nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới.
Mục tiêu của Nghị quyết là tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, niềm tin, khát vọng cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc; góp phần thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bác Hồ đã nói "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công" - dẫn lại lời dạy của Bác Hồ, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cho rằng, nếu như có đoàn kết trong Đảng thì sẽ có thành công. Nếu có đoàn kết trong Đảng, đoàn kết trong dân thì sẽ có thành công lớn hơn và nếu có cả đoàn kết trong Đảng, trong dân và đoàn kết quốc tế thì sẽ đạt tới đại đoàn kết, đại thành công lớn hơn. Như vậy, cách đặt vấn đề của Nghị quyết 43 đã rộng hơn, làm rõ hơn nội hàm của đại đoàn kết dân tộc.
Toàn cảnh Hội nghị tại điểm cầu Trung ương
Cũng tại Hội nghị, các đại biểu đã nghe Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính truyền đạt chuyên đề "Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới".
Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, một trong những điểm mới rất quan trọng của Nghị quyết 42 là đã mở rộng ra toàn bộ các nhóm chính sách xã hội cho tất cả các đối tượng; hướng tới mục tiêu năm 2045, Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia có chỉ số phát triển con người (HDI) cao trên thế giới.
Thủ tướng Phạm Minh Chính tập trung vào một số vấn đề trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết, với 5 nội dung chính: Các yếu tố nền tảng của chính sách xã hội; đánh giá khái quát 10 năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012; sự cần thiết ban hành Nghị quyết về đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội; những nội dung chính của Nghị quyết số 42-NQ/TW; những điểm mới nổi bật của Nghị quyết số 42-NQ/TW.
Thủ tướng nhấn mạnh: Chính sách xã hội là chính sách chăm lo cho con người; là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội; thể hiện đặc trưng, bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN; tăng trưởng kinh tế gắn với bảo đảm chính sách xã hội; tạo điều kiện để nhân dân thụ hưởng thành quả của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Theo Thủ tướng, đây là lĩnh vực lớn, phạm vi rộng, có ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng đến tất cả các tầng lớp nhân dân và toàn xã hội, được triển khai ở tất cả các cấp, các ngành, các địa phương.
Các đại biểu tại điểm cầu BHXH Việt Nam
Chiều cùng ngày, các đại biểu dự Hội nghị đã nghe Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa truyền đạt chuyên đề "Tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới".
Theo Nghị quyết số 45/NQ-TW của Ban Chấp hành TW Đảng, tầm nhìn đến năm 2045, đội ngũ trí thức Việt Nam lớn mạnh, có chất lượng cao, cơ cấu hợp lý, thuộc tốp đầu khu vực, tiệm cận các nước phát triển.
Nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của nhân tài trong công cuộc làm hưng thịnh đất nước, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa cho rằng trong mọi thời đại, ở mọi quốc gia, đội ngũ trí thức luôn luôn là một lực lượng quan trọng thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Điều này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng là "Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới."
Nghị quyết số 45 định hướng rõ quan điểm, xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh toàn diện là đầu tư cho xây dựng, bồi đắp "nguyên khí quốc gia" và tiếp tục khẳng định xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và xã hội.
Đến năm 2030, mục tiêu phát triển đội ngũ trí thức về số lượng và chất lượng, nhất là đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành trong lĩnh vực then chốt, trọng yếu, lĩnh vực mới đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hoàn thiện cơ chế, chính sách bảo đảm khả thi, đồng bộ, tạo cơ hội, điều kiện, động lực cho đội ngũ trí thức phát triển toàn diện, nâng cao năng lực, trình độ và cống hiến cho đất nước.
Tầm nhìn đến năm 2045, đội ngũ trí thức Việt Nam lớn mạnh, có chất lượng cao, cơ cấu hợp lý, thuộc tốp đầu khu vực và tiệm cận với các nước phát triển. Nhiều nhà khoa học có ảnh hưởng trên thế giới, đạt các giải thưởng quốc tế trên các lĩnh vực. Nhiều tổ chức khoa học và công nghệ, cơ sở giáo dục và đào tạo đạt chuẩn quốc tế đáp ứng yêu cầu của quốc gia phát triển.
Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương cho biết Nghị quyết số 45 đề ra 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp. Mỗi nhóm nhiệm vụ, giải pháp lớn gồm nhiều các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể và do các chủ thể khác nhau thực hiện.
Tại Hội nghị, các đại biểu cũng đã nghe Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang truyền đạt chuyên đề: "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới"
Trên cơ sở nội dung các chuyên đề về các Nghị quyết được quán triệt, các cấp ủy, tổ chức Đảng, các ban, bộ, ngành, địa phương tiếp tục quán triệt, tuyên truyền sâu rộng các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII ở địa phương, cơ quan, đơn vị; xây dựng kế hoạch, chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII cụ thể, thiết thực và hiệu quả.
Minh Đức