Sốt rét là bệnh truyền nhiễm do ký sinh trùng Plasmodium gây ra với muỗi Anopheles là véc-tơ truyền bệnh. Bệnh thường biểu hiện bằng những cơn sốt rét điển hình với 3 triệu chứng: Rét run, sốt và vã mồ hôi có tính chu kỳ tùy theo loài ký sinh trùng. Đặc biệt, sốt rét do P.falciparum có thể gây ra sốt rét ác tính dẫn tới tử vong nếu không được chẩn đoán, điều trị kịp thời.
Tuy nhiên, sốt rét có thuốc điều trị đặc hiệu và bệnh có thể phòng, chống được. Tính đến năm 2022, Việt Nam đã có 42 tỉnh, thành được công nhận loại trừ sốt rét; tuy nhiên, vẫn còn 21 tỉnh, thành có sốt rét lưu hành và có các trường hợp mắc bệnh sốt rét ngoại lai do đi làm việc, công tác, du lịch từ các quốc gia có sốt rét lưu hành trở về.
Bộ Y tế hướng dẫn, trường hợp nghi ngờ sốt rét là những trường hợp có sốt và có yếu tố dịch tễ. Trong đó, về sốt, là người bệnh đang sốt hoặc có tiền sử sốt trong 3 ngày gần đây; có triệu chứng điển hình của cơn sốt rét là rét run, sốt và vã mồ hôi, có tính chu kỳ; người bị sốt rét lần đầu tiên thường không có cơn sốt rét điển hình mà thường sốt không thành cơn (người bệnh thấy ớn lạnh, gai rét) hoặc sốt cao liên tục, sốt dao động. Còn về yếu tố dịch tễ, người đến vùng sốt rét, đang ở hoặc trở về từ vùng sốt rét lưu hành hoặc có tiền sử mắc sốt rét không nên chủ quan. Tất cả các trường hợp nghi ngờ sốt rét đều phải làm xét nghiệm để phát hiện ký sinh trùng sốt rét. Nếu lần đầu xét nghiệm soi lam âm tính, mà vẫn còn nghi ngờ người đó bị sốt rét, thì phải xét nghiệm lại lam máu sau 8-24 giờ tốt nhất vào thời điểm người bệnh đang lên cơn sốt.
Trường hợp bệnh sốt rét xác định là trường hợp có ký sinh trùng sốt rét trong máu được xác định bằng xét nghiệm lam máu nhuộm Giemsa hoặc xét nghiệm chẩn đoán nhanh phát hiện kháng nguyên hoặc kỹ thuật sinh học phân tử. Các kỹ thuật xét nghiệm xác định ký sinh trùng sốt rét bao gồm: Kỹ thuật xét nghiệm lam máu nhuộm Giemsa, kỹ thuật phổ biến trong phát hiện ký sinh trùng sốt rét ở các cơ sở y tế, kết quả xét nghiệm ký sinh trùng có thể trả lời trong vòng 1 giờ; Kỹ thuật xét nghiệm chẩn đoán nhanh phát hiện kháng nguyên sốt rét (Rapid Diagnostic Tests -RDTs), thường được áp dụng để chẩn đoán sốt rét tại các cơ sở y tế và y tế thôn bản, kết quả có thể trả lời trong vòng 30 phút; Kỹ thuật sinh học phân tử là kỹ thuật xác định chất liệu di truyền (DNA hoặc RNA) của ký sinh trùng sốt rét trong máu, áp dụng ở những nơi có đủ điều kiện kỹ thuật.
Đặc biệt, tại Tài liệu Hướng dẫn Chẩn đoán và điều trị bệnh sốt rét vừa ban hành, Bộ Y tế nhấn mạnh về phòng, chống sốt rét ác tính/biến chứng. Sốt rét ác tính là trường hợp sốt rét có biến chứng đe dọa tính mạng người bệnh, thường xảy ra trên người bệnh nhiễm P.falciparum hoặc nhiễm phối hợp có P.falciparum; lưu ý, các trường hợp nhiễm P.vivax hoặc P.knowlesi đơn thuần cũng có thể gây sốt rét ác tính. Cần lưu ý các dấu hiệu cảnh báo sốt rét ác tính bao gồm rối loạn ý thức nhẹ, thoáng qua (li bì, cuồng sảng, vật vã ...), sốt cao liên tục, rối loạn tiêu hóa (nôn, tiêu chảy nhiều lần trong ngày, đau bụng cấp), đau đầu dữ dội, mật độ ký sinh trùng thể vô tính cao (P.falciparum ++++ hoặc ≥ 100.000 KST/µl máu), thiếu máu nặng (da xanh, niêm mạc nhợt). Trường hợp trẻ em và phụ nữ có thai, một số biểu hiện thường gặp trong sốt rét ác tính như sau: Với trẻ em, là thiếu máu nặng, hôn mê, co giật, hạ đường huyết, suy hô hấp, toan chuyển hóa; với phụ nữ có thai là hạ đường huyết (thường sau điều trị quinin), thiếu máu, sảy thai, đẻ non, nhiễm trùng hậu sản sau sảy thai hoặc đẻ non.
Để điều trị dứt điểm bệnh sốt rét, cần phát hiện và điều trị sớm bằng thuốc đặc trị đúng và đủ liều. Điều trị cắt cơn sốt kết hợp với chống lây lan đối với sốt rét do P.falciparum, P.malariae, P.knowlesi và điều trị tiệt căn đối với sốt rét do P.vivax, P.ovale ngay từ ngày đầu tiên. Các trường hợp sốt rét do P.falciparum không được dùng một thuốc sốt rét đơn thuần, phải điều trị thuốc sốt rét phối hợp hoặc phối hợp các thuốc khác nhau để tăng hiệu lực điều trị và hạn chế kháng thuốc. Kết hợp điều trị thuốc sốt rét đặc hiệu với điều trị hỗ trợ và nâng cao thể trạng. Điều trị sốt rét ở người bệnh có bệnh lý kèm theo thì phải điều trị kết hợp bệnh lý kèm theo. Các trường hợp sốt rét ác tính phải chuyển về đơn vị hồi sức cấp cứu của bệnh viện từ tuyến huyện trở lên, theo dõi chặt chẽ và hồi sức tích cực. Có thể chỉ định điều trị cho một số trường hợp nghi ngờ sốt rét có dấu hiệu đe dọa đến tính mạng của người bệnh sau khi đã loại trừ các nguyên nhân khác.
Trong phân tuyến điều trị, sốt rét có thể điều trị ở trạm y tế xã, phòng khám bệnh tư nhân; Trung tâm y tế tuyến huyện, BVĐK tuyến huyện và BV tư nhân; BV tuyến tỉnh và tuyến Trung ương. Trong trường hợp cần thiết, sẽ tiến hành điều trị toàn dân vùng nguy cơ, có nghĩa là sử dụng một liệu trình điều trị đầy đủ thuốc chống sốt rét (bất kể có triệu chứng của nhiễm ký sinh trùng sốt rét hay không) cho một nhóm dân số xác định, sống trong một khu vực địa lý xác định (trừ những trường hợp có chống chỉ định) ở trong cùng một thời điểm và thường được lặp lại trong một khoảng thời gian. Mục đích điều trị toàn dân vùng nguy cơ là để ngăn chặn sự lây truyền của bệnh sốt rét; Giảm nguy cơ lây lan đa kháng thuốc; Trong các vụ dịch sốt rét hoặc có nguy cơ xảy ra dịch sốt rét; Trường hợp khẩn cấp, tình trạng đặc biệt (các Viện Sốt rét- Ký sinh trùng- Côn trùng và Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh quyết định chọn phạm vi điều trị, thuốc sử dụng phù hợp và số lần điều trị).
Tùng Anh