Thuốc Albumin (human serum albumin- HSA) được coi là một loại huyết tương protein ở trong cơ thể người. Nó được chiết tách từ huyết tương thành công và bắt đầu được sử dụng trong lâm sàng từ năm 1940.
Hiện nay, thuốc được nhiều hãng dược phẩm bào chế đưa ra thị trường dưới dạng dung dịch để tiêm tĩnh mạch với 3 loại hàm lượng cơ bản, bao gồm thuốc dạng hàm lượng 5%, thuốc dạng hàm lượng 20% và thuốc dạng hàm lượng 25%. Tại các nhà thuốc hiện nay có khá nhiều dạng chế phẩm dung dịch Albumin tiêm truyền với các tên biệt dược khác nhau của nhiều hãng dược phẩm uy tín có thể tích 50, 100, 250ml với giá bán khá cao.
Công dụng của thuốc Albumin là làm tăng thể tích huyết tương hoặc tăng nồng độ huyết thanh, chống tăng bilirubin huyết nhằm giúp cơ thể phát triển một cách an toàn và khỏe mạnh. Bệnh nhân bị thiếu Albumin trầm trọng, được chỉ định thay thế Albumin, bao gồm các trường hợp như: Bị giảm thể tích tuần hoàn, bị trụy mạch, bệnh nhân bị xơ gan cổ trướng, bị suy gan.
Ngoài ra, thuốc Albumin còn được dùng để phụ trợ trong một số trường hợp như: Lọc thận nhân tạo, suy hô hấp cấp ở người lớn, phẫu thuật tim phổi, tăng bilirubin huyết sơ sinh... Trong một số trường hợp như sốc vì mất máu quá nhiều, giảm protein do suy gan hoặc điều trị bỏng hay do phẫu thuật, có thể sử dụng thuốc Albumin. Bên cạnh đó, Albumin có thể được dùng kết hợp với một số loại thuốc khác nhằm hỗ trợ điều trị một số bệnh lý khác.
Albumin là một protein quan trọng, chiếm tỷ lệ hơn 50% tổng protein trong huyết tương, nồng độ trong huyết tương bình thường ở mức 3,5-5g/dl. HSA có trọng lượng phân tử 66,5kDa, giữ vai trò duy trì áp lực keo trong lòng mạch, liên kết và vận chuyển một số chất nội sinh hoặc ngoại sinh như: Bilirubin, hormon steroid và thuốc có trong máu.
Albumin được sản xuất tại gan, trong điều kiện bình thường chỉ khoảng 20-30% các tế bào gan đảm nhiệm vai trò sản xuất; khoảng 10-15g được sản xuất, giải phóng vào hệ tuần hoàn mỗi ngày và hầu như không được dự trữ tại tế bào. Tuy nhiên, trong điều kiện đặc biệt, HSA có thể được tăng sản xuất gấp 3-4 lần bình thường do khai thác một lượng lớn các tế bào gan.
Thuốc Albumin thường được dùng ở dạng tiêm. Khi được truyền vào máu, Albumin có thể làm tăng thể tích tuần hoàn, trung bình khi truyền 1g Albumin sẽ làm tăng thể tích tuần hoàn lên khoảng 18ml. Chế phẩm Albumin khi sử dụng không được pha loãng với nước cất, do có khả năng gây tan máu và suy thận cấp.
Trước khi dùng thuốc Albumin điều trị bệnh, mọi người cần phải trao đổi với thầy thuốc để biết rõ nếu như bị suy tim, suy thận/thiếu máu mãn tính ổn định, hay có nguy cơ bị ứ dịch. Trường hợp có tiền sử bị dị ứng với những thành phần của thuốc trước khi sử dụng Albumin, cần phải được khai thác kỹ để cảnh báo và thận trọng. Các đối tượng đặc biệt như trẻ em và người lớn tuổi, phụ nữ đang trong thời gian mang thai hoặc cho con bú cũng cần phải trao đổi rõ với các bác sĩ được biết.
Hiện nay có tình trạng lạm dụng Albumin trong lâm sàng. Bên cạnh một số chỉ định được Y văn khẳng định bằng các bằng chứng khoa học chắc chắn, một số cách chỉ định vẫn có những tranh luận hoặc chưa cung cấp được các bằng chứng y học. Các nghiên cứu hiệu quả của Albumin đã được các chuyên gia tiến hành suốt quá trình từ khi đưa vào sử dụng thuốc đến nay, tuy nhiên kết quả còn không thống nhất, thậm chí đối lập và gây tranh cãi.
Dựa theo bằng chứng, Albumin đã được khuyến cáo sử dụng cho các đối tượng bệnh nhân xơ gan, nhóm bệnh nhân có chọc dò hút dịch lượng lớn, nhóm bệnh nhân có viêm phúc mạc do vi khuẩn, nhóm bệnh nhân có hội chứng gan thận, hội trứng buồng trứng kích thích quá mức, điều trị tăng bilirubin máu ở trẻ em sơ sinh…
Thuốc Albumin có một vai trò quan trọng trong thực hành lâm sàng, đặc biệt với nhóm bệnh nhân có bệnh lý gan và nhóm bệnh nhân nặng. Tuy nhiên, với những kết quả nghiên cứu được công bố, một số sử dụng của Albumin trong điều trị hiện nay đã không còn phù hợp. Nhóm bệnh nhân có tổn thương não cấp được khuyến cáo không nên sử dụng dung dịch Albumin do có thể làm tăng nguy cơ tử vong. Sử dụng Albumin như một dung dịch dinh dưỡng tĩnh mạch hiện nay khá hay gặp trong thực tế cũng là một chỉ định không phù hợp.
Albumin là một chế phẩm từ máu, có giá thành cao, do vậy việc sử dụng trên lâm sàng luôn cần được cân nhắc giữa lợi ích và chi phí. Tuy nhiên, ở nhiều nơi, hiện nay việc sử dụng thuốc này vẫn còn khá đa dạng.
ThS.Lê Quốc Thịnh