Ngân hàng Thế giới (WB) ước tính, Việt Nam sẽ đạt mức tăng trưởng kinh tế 7,2% trong năm nay, thay vì 5,3% như dự báo hồi tháng 4/2022.
Báo cáo cập nhật Tình hình kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương kỳ tháng 10/2022, vừa được WB công bố sáng 28/9 theo hình thức trực tuyến, phân tích bức tranh kinh tế bao quát khu vực Đông Á, Đông Nam Á và các đảo Thái Bình Dương (không bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc và Triều Tiên). WB dự báo, tốc độ tăng trưởng của các quốc gia đang phát triển khu vực Đông Á và Thái Bình Dương ngoài Trung Quốc được dự báo sẽ tăng tốc lên 5,3% trong năm 2022 so với 2,6% trong năm 2021. Trong toàn khu vực, tăng trưởng được dự báo sẽ chững lại còn 3,2% trong năm nay, trước khi tăng lên 4,6% trong năm tới, cả hai mức này đều thấp hơn so với 7,2% trong năm 2021.
Theo báo cáo, Việt Nam được kỳ vọng sẽ dẫn đầu khu vực với tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2022 đạt 7,2%. Cụ thể, các động lực tăng trưởng của Việt Nam dự kiến sẽ xoay quanh nhu cầu từ cả trong và ngoài nước, từ ngành chế biến chế tạo cho đến ngành dịch vụ khi xuất khẩu sang các thị trường lớn (Hoa Kỳ, khu vực đồng Euro và Trung Quốc) ở mức trung bình. Lạm phát dự kiến sẽ tăng lên 3,8% vào năm 2022 và 4% vào năm 2023 do tác động của đợt biến động giá cả hàng hóa, trước khi giảm xuống 3,3% vào năm 2024. Tuy nhiên, nền kinh tế đang phải đối mặt với những rủi ro suy thoái ngày càng lớn liên quan đến sự suy giảm kinh tế của các đối tác thương mại chính, lạm phát cao hơn và rủi ro tài chính gia tăng. Do vậy, các chuyên gia của WB khuyến nghị, rủi ro trong khu vực tài chính gia tăng đòi hỏi phải tăng cường giám sát, báo cáo và trích lập dự phòng nợ xấu, đồng thời cải thiện các cơ chế giải quyết vấn đề mất khả năng thanh toán của DN và khu vực ngân hàng.
“Quá trình phục hồi kinh tế đang diễn ra ở hầu hết các quốc gia trong khu vực Đông Á và Thái Bình Dương”- Phó Chủ tịch WB phụ trách Khu vực Đông Á và Thái Bình Dương Manuela V. Ferro nhận xét. Tương tự Việt Nam, một số quốc gia cũng được nâng mức tăng trưởng như Malaysia, Philippines và Thái Lan. Trong khi đó, Trung Quốc được dự đoán đạt mức tăng trưởng 2,8%, giảm đáng kể so với con số 5% được đưa ra vào kỳ dự báo của tháng 4, và giảm mạnh so với 8,1% trong năm 2021. Tăng trưởng ở hầu hết các quốc gia khu vực Đông Á và Thái Bình Dương có được nhờ nhu cầu trong nước phục hồi, do các biện pháp hạn chế liên quan đến Covid-19 được nới lỏng và nhờ tăng trưởng xuất khẩu. Theo WB, hầu hết các quốc gia Đông Á -Thái Bình Dương đạt tốc độ tăng trưởng tương đối cao trong hầu hết năm 2022 nhờ 3 nguyên nhân. Một là, tiêu dùng tư nhân phục hồi mạnh hơn dự kiến trong nửa đầu 2022. Hai là, nhu cầu trên toàn cầu về hàng hóa và sản phẩm chế tạo xuất khẩu đến từ các quốc gia trong khu vực vẫn bền vững, dù đang có dấu hiệu yếu đi. Ba là, chính sách tiền tệ và tài khóa đến nay mới thắt chặt ở mức hạn chế, tuy áp lực thắt chặt có thể gia tăng. “Yếu tố chính của sự tăng trưởng này là việc các quốc gia gỡ bỏ rào cản trong giai đoạn dịch bệnh Covid-19 hoành hành, bất kể là các quy định chống dịch hay thái độ thận trọng trong tiêu dùng của người dân”, ông Aaditya Mattoo- chuyên gia Kinh tế trưởng khu vực Đông Á và Thái Bình Dương của WB cho biết.
Mặc dù vậy, tăng trưởng kinh tế toàn cầu chững lại đang dần làm giảm nhu cầu về các mặt hàng xuất khẩu và các sản phẩm chế tạo chế biến xuất khẩu của khu vực. Lạm phát tăng đồng loạt khiến cho lãi suất cũng tăng lên, qua đó làm cho dòng vốn chạy ra ngoài và đồng tiền mất giá tại một số quốc gia Đông Á và Thái Bình Dương. Những diễn biến này làm tăng gánh nặng trả nợ và thu hẹp dư địa tài khóa, ảnh hưởng xấu đến các quốc gia rơi vào đại dịch với gánh nặng nợ cao.
Báo cáo của WB đánh giá, trong quá trình các quốc gia trong khu vực tìm cách phòng vệ cho hộ gia đình, DN khi giá cả lương thực, thực phẩm và nhiên liệu tăng cao, các biện pháp chính sách hiện nay chỉ mang tính hỗ trợ đáp ứng nhu cầu nhưng lại làm gia tăng những méo mó chính sách hiện tại. Các biện pháp kiểm soát giá thực phẩm và trợ giá năng lượng đem lại lợi ích cho người giàu và ảnh hưởng đến chi tiêu của chính phủ cho hạ tầng, giáo dục và y tế. Các biện pháp cho phép giãn, hoãn thời gian trả nợ hiện nay, nhằm nới lỏng điều kiện cho vay trong thời gian đại dịch, có thể khiến cho nguồn lực bị kẹt ở những DN thất bại, khiến cho vốn không đến được những ngành nghề và lĩnh vực năng động nhất. “Các nhà hoạch định chính sách đang phải đối mặt với lựa chọn khó khăn giữa xử lý lạm phát và hỗ trợ phục hồi kinh tế. Kiểm soát và trợ giá làm mờ đi tín hiệu giá và ảnh hưởng đến năng suất. Chuyển sang những chính sách tốt hơn về lương thực, thực phẩm, nhiên liệu và tài chính sẽ vừa thúc đẩy tăng trưởng, vừa phòng chống lạm phát”, chuyên gia của WB khuyến nghị.
Thái An