Khó khăn không ngăn cản sự lạc quan của người dân Việt Nam khi có 64,3% phụ nữ và 69,8% nam giới từ 15-49 tuổi cho biết cảm thấy hạnh phúc, thậm chí rất hạnh phúc với cuộc sống hiện tại. Tuy nhiên, bức tranh toàn cảnh về đời sống trẻ em và phụ nữ trong các hộ gia đình ở Việt Nam cũng cho thấy những khoảng sáng, tối đan xen…
Đó là một trong các kết quả đáng chú ý từ cuộc Điều tra các Mục tiêu phát triển bền vững về trẻ em và phụ nữ năm 2020-2021 (SDGCW Việt Nam 2020-2021) vừa được Tổng cục Thống kê công bố.
Điều tra được thực hiện với sự hỗ trợ của Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICEF) và Quỹ Dân số LHQ (UNFPA), cung cấp thông tin về 38 chỉ tiêu phát triển bền vững toàn cầu, 35 chỉ tiêu phát triển bền vững của Việt Nam, phản ánh bức tranh chân thực về cuộc sống của trẻ em và phụ nữ trong các hộ gia đình. Số liệu tính toán từ kết quả điều tra đảm bảo độ tin cậy và so sánh quốc tế, đồng thời cung cấp thông tin làm bằng chứng để hoạch định, xây dựng các chính sách và chương trình, phục vụ đánh giá tiến trình thực hiện các mục tiêu quốc gia của Việt Nam và cam kết toàn cầu về trẻ em và phụ nữ.
Một trong những chỉ số thú vị nhất của khảo sát là chỉ số thỏa mãn với cuộc sống và hạnh phúc: Nam giới có chỉ số hài lòng với cuộc sống khá tương đồng giữa các độ tuổi, trong khi phụ nữ có chỉ số hài lòng với cuộc sống cao hơn nam giới và có sự khác biệt nhẹ giữa các độ tuổi. Tuy nhiên, theo khảo sát, trong bối cảnh kinh tế xã hội năm 2020-2021 gặp nhiều khó khăn do đại dịch Covid-19, cuộc sống của người dân nói chung, trẻ em và phụ nữ nói riêng chịu nhiều tác động tiêu cực, chỉ có 42,5% phụ nữ và 45,4% nam giới từ 15-49 tuổi được phỏng vấn tại thời điểm điều tra cảm nhận cuộc sống được cải thiện trong một năm qua và cho rằng cuộc sống của họ sẽ tốt hơn sau một năm.
Đặc biệt, điều tra tập trung vào bức tranh toàn diện về các khía cạnh cuộc sống của trẻ em, nhất là trẻ em dưới 5 tuổi; các chủ đề về sức khỏe sinh sản của phụ nữ từ 15-49 tuổi, cho thấy những khoảng sáng, tối trong đời sống trẻ em và phụ nữ trong các hộ gia đình ở Việt Nam.
Có 5 điểm nổi bật của kết quả điều tra được chỉ ra: Thứ nhất, phụ nữ, trẻ em dân tộc thiểu số, đặc biệt là người Mông, người Khmer là nhóm đối tượng yếu thế hơn cả, xét về các chỉ tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc. Mặc dù, thời gian qua, Việt Nam đã có sự phát triển nói chung ở nhóm phụ nữ và trẻ em, nhưng với những nhóm đối tượng dân tộc thiểu số này vẫn còn có một khoảng cách so với cả các nhóm đối tượng khác trong xã hội, sự chênh lệnh thấy rõ hơn khi xét về tiếp cận với cơ hội được tiêm chủng, điều kiện vệ sinh, nước sạch. Trẻ em gái dân tộc thiểu số gặp phải rất nhiều rủi ro, như là tảo hôn, khó khăn trong cơ hội được đến trường.
Điểm thứ hai, điều tra đã cho thấy việc thiếu tiếp cận với Internet và đặc biệt là thiếu kỹ năng về công nghệ thông tin của trẻ em trai, trẻ em gái, nam giới và phụ nữ trên khắp Việt Nam. Mặc dù có hơn 80% người từ 15-49 tuổi sử dụng Internet nhưng chỉ có hơn 30% người biết sử dụng máy vi tính.
Điểm thứ ba, ở nhiều khu vực, tình trạng bất bình đẳng giới mặc dù không rõ ràng nhưng kết quả điều tra cho thấy nguy cơ trẻ em không đi học tăng dần theo cấp học và đội tuổi. Bậc tiểu học (cấp 1) có 98,2% trẻ em đi học đúng tuổi và chỉ có 1,2% trẻ em không đi học, nhưng đến cấp trung học phổ thông (cấp 3), tỷ lệ đi học đúng tuổi chỉ còn 78,1% và tỷ lệ học sinh không đi học ở cấp học này là 21,6%. Tỷ lệ hoàn thành cấp học cũng có xu hướng giảm, với tỷ lệ hoàn thành tiểu học là 98,3% giảm xuống còn 86,8% ở cấp trung học cơ sở và chỉ còn 58,1% ở cấp trung học phổ thông. Từ những con số này, có thể thấy trong bối cảnh khó khăn kinh tế, nhiều trẻ em phải bỏ học, đi làm từ rất sớm, khi điều kiện tài chính của bố mẹ không đảm bảo.
Điểm nổi bật thứ tư, là tình trạng kỷ luật trẻ em bằng phương pháp bạo lực trong hộ gia đình vẫn là một thực trạng phổ biến ở Việt Nam. Có 70,8% trẻ em dưới 15 tuổi từng đã phải chịu ít nhất một hình thức xử phạt tâm lý (như la hét, chửi mắng trẻ, gọi trẻ là đồ ngu, đồ lười hoặc hình thức tương tự) hoặc thể xác (đánh hoặc phát trẻ vào bàn tay, cánh tay, cẳng chân; hoặc đánh, phát vào mặt/đầu/mang tai/mông trẻ bằng tay; hoặc đánh vào thân thể trẻ bằng một vật như thắt lưng, roi vật cứng khác; đánh trẻ liên tiếp, mạnh) bởi các thành viên trong hộ gia đình trong một tháng trước thời điểm điều tra
Và điểm cuối cùng, đó là Việt Nam đang đối mặt với khủng hoảng về nước sạch. Điều tra SDGCW Việt Nam 2020-2021 nghiên cứu chất lượng nguồn nước hộ gia đình sử dụng thông qua việc đo nồng độ Asen và Ecoli. Tín hiệu đáng mừng từ kết quả cho thấy 98,1% dân số sử dụng nguồn nước được cải thiện và 92,1% dân số sử dụng hố xí hợp vệ sinh, tuy nhiên tỷ lệ dân số sử dụng nước uống bị nhiễm khuẩn Ecoli còn khá cao tới 41,1%. Vẫn còn 0,6% dân số sống trong hộ gia đình có nước nguồn bị nhiễm Asen.
Kết quả của Điều tra SDGCW Việt Nam 2020-2021 giúp Việt Nam theo dõi, báo cáo và củng cố tốt hơn việc hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng để thực hiện cam kết của mình về các Mục tiêu Phát triển Bền vững. Do vậy, đây là nguồn thông tin quý giá cho các nhà hoạch định chính sách, cán bộ quản lý và các nhà nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực trong nỗ lực hướng tới đẩy mạnh tiến bộ về quyền và phúc lợi của trẻ em và phụ nữ tại Việt Nam. Những vấn đề trên đòi hỏi Chính phủ Việt Nam cần có những giải pháp tình thế, cũng như có sự đầu tư dài hạn vào những lĩnh vực còn nhiều khoảng trống, để đảm bảo việc tiếp cận công bằng các dịch vụ xã hội, từ đó đảm bảo phát triển bền vững.
Thái An