Đái tháo đường (ĐTĐ) là một trong những bệnh không lây nhiễm phổ biến trên thế giới và Việt Nam. Theo thống kê, tỷ lệ người mắc đái tháo đường (ĐTĐ) tại Việt Nam là 7,3% (lứa tuổi từ 30-69), trong đó tỷ lệ ĐTĐ tại 2 đô thị lớn là Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh là 8,3%.
Là một trong những biến chứng của bệnh ĐTĐ, bệnh võng mạc đái tháo đường làm các mạch máu của võng mạc bị tổn thương, có thể gây chảy máu, dò huyết tương và phát triển tân mạch, hình thành tổ chức xơ sẹo, dẫn đến giảm hoặc mất thị lực. Hay nói cách khác, bệnh võng mạc đái tháo đường là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây giảm thị lực và mù lòa trên thế giới.
Theo Bộ Y tế, ở Việt Nam, tỷ lệ người bệnh mắc ĐTĐ ngày càng tăng, trong khi tuổi thọ trung bình tăng, nên tỷ lệ người mắc bệnh võng mạc đái tháo đường cũng tăng lên. Thống kê cho thấy, tỷ lệ người mắc ĐTĐ trên toàn quốc là 7,3% (lứa tuổi từ 30-69); tỷ lệ ĐTĐ tại Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh là 8,3%; khoảng từ 20% đến 35% người mắc ĐTĐ bị biến chứng võng mạc đái tháo đường. Cũng như ĐTĐ, bệnh võng mạc đái tháo đường diễn ra âm thầm, đa số người bệnh mắc bệnh không biết cho đến khi tiến triển nặng, không thể hồi phục ngay cả khi được điều trị. Các yếu tố nguy cơ mắc bệnh võng mạc đái tháo đường bao gồm thời gian mắc bệnh ĐTĐ, kiểm soát đường huyết không tốt, tăng huyết áp, bệnh thận, thiếu máu, rối loạn mỡ máu, có thai...
Về nguyên tắc điều trị chung, Bộ Y tế hướng dẫn, cần kết hợp điều trị nội khoa, laser dự phòng mất thị lực; điều trị phẫu thuật khi các biến chứng mất thị lực đã xảy ra. Trong đó, với điều trị nội khoa, phương pháp tốt nhất để dự phòng bệnh võng mạc đái tháo đường hay làm chậm tiến triển của bệnh là cần bằng đường huyết tốt cũng như điều trị các yếu tố nguy cơ kết hợp như tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu hay suy thận. Phương pháp phẫu thuật để điều trị biến chứng của bệnh võng mạc đái tháo đường tăng sinh, chủ yếu là cắt dịch kính lấy máu trong dịch kính và loại bỏ các cầu nối trong dịch kính, loại bỏ co kéo dịch kính - võng mạc. Ngoài ra, còn có thể sử dụng phương pháp Laser quang đông (phá hủy tất cả các vùng võng mạc thiếu máu (vùng tắc mao mạch) ngăn chặn tân mạch xuất hiện, các vùng khuếch tán phù để tránh phù hoàng điểm) và phương pháp Kháng VEGF (chỉ định cho các trường hợp có phù hoàng điểm, bệnh võng mạc đái tháo đường tăng sinh, tân mạch mống mắt, glôcôm tân mạch).
Trong điều trị cụ thể, khi điều trị nội khoa toàn thân, cần kiểm soát tốt các yếu tố nguy cơ như hút thuốc lá, thiếu máu, bệnh thận mạn tính, các rối loạn chuyển hóa toàn thân, đặc biệt là đường huyết, huyết áp, lipid máu- Đây là nền tảng trong việc ngăn ngừa, điều trị biến chứng võng mạc ở người bệnh ĐTĐ. Với bệnh võng mạc đái tháo đường:
Giai đoạn không có bệnh võng mạc đái tháo đường, bệnh võng mạc đái tháo đường không tăng sinh nhẹ hoặc vừa: Theo dõi và khám lại định kỳ theo khuyến cáo. Điều trị phù hoàng điểm ĐTĐ nếu có. Fenofibrate 145-200mg/ngày có tác dụng làm giảm sự tiến triển của bệnh.
Giai đoạn bệnh võng mạc đái tháo đường không tăng sinh nặng: Theo dõi chặt chẽ để phát hiện bệnh võng mạc đái tháo đường tăng sinh. Cân nhắc laser quang đông vùng võng mạc thiếu máu (nhìn thấy được trên chụp mạch huỳnh quang), laser quang đông toàn võng mạc (PRP) sớm cho những người bệnh có nguy cơ bị bệnh võng mạc đái tháo đường tăng sinh cao hoặc những người bệnh theo dõi kém, đục thể thủy tinh cần phẫu thuật hoặc thai kì và tình trạng mắt kia. Hiện nay việc tiêm các chất kháng VEGF cũng được cân nhắc để điều trị sớm giúp không chỉ ngăn chặn tiến triển mà còn làm bệnh thoái triển.
Bệnh võng mạc đái tháo đường tăng sinh: Tiêm các chất kháng VEGF theo phác đồ điều trị kháng VEGF. Có thể kết hợp với PRP, phá hủy tất cả các vùng thiếu máu võng mạc làm thoái triển tân mạch võng mạc. Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng kháng VEGF cho kết quả thị lực tốt hơn so với PRP ở những người bệnh bệnh võng mạc đái tháo đường tăng sinh. Bên cạnh đó, kháng VEGF không làm mất thị trường ngoại vi, giảm nguy cơ phù hoàng điểm và biến chứng phải can thiệp phẫu thuật so với PRP.
Bộ Y tế lưu ý, quản lý bệnh võng mạc đái tháo đường bao gồm khám phát hiện sớm và phân cấp quản lý tại các tuyến theo mức độ bệnh. Việc khám sớm là cần thiết để phát hiện các tổn thương trên võng mạc và kịp thời chuyển bác sĩ chuyên khoa mắt khám và điều trị tránh nguy cơ mất thị lực vĩnh viễn, mù lòa. Bên cạnh đó, phân cấp quản lý giữa các tuyến cũng giúp thuận lợi trong việc theo dõi người bệnh bị bệnh võng mạc đái tháo đường, giảm gánh nặng cho hệ thống y tế tuyến trên.
Để phòng, chống ĐTĐ và võng mạc đái tháo đường, cần truyền thông giáo dục sức khỏe về bệnh võng mạc đái tháo đường lồng ghép trong các đợt khám và theo dõi bệnh ĐTĐ định kỳ của người bệnh. Cán bộ y tế cần tư vấn trực tiếp cho người bệnh về kết quả khám và việc điều trị bệnh ĐTĐ, bệnh võng mạc đái tháo đường; khuyến khích người bệnh có bệnh ĐTĐ nhưng chưa có biến chứng võng mạc cần khám sàng lọc mắt định kỳ; giải thích cho người bệnh hiệu quả điều trị bệnh võng mạc đái tháo đường phụ thuộc vào thời gian can thiệp kể cả khi thị lực còn tốt hoặc chưa có triệu chứng cơ năng tại mắt; giáo dục cho người bệnh tầm quan trọng của việc kiểm soát đường huyết, huyết áp và mỡ máu; nhắc nhở người bệnh trao đổi với bác sỹ nội khoa hoặc bác sỹ nội tiết về tình trạng tổn thương tại mắt do ĐTĐ; hỗ trợ cho các người bệnh không có điều kiện phẫu thuật và những người không có khả năng chữa trị; hướng dẫn người bệnh bị giảm chức năng thị giác phục hồi thị lực; hướng dẫn người bệnh đã điều trị (Laser, phẫu thuật) cần theo dõi đúng thời hạn.
Tùng Anh