Việt Nam hiện có hơn 7 triệu người khuyết tật (NKT), chiếm 7,06% dân số từ 2 tuổi trở lên. Tuy nhiên, NKT có việc làm chỉ chiếm 31,7% trong tổng số NKT trên toàn quốc, nhất là việc học nghề và có việc làm với NKT vẫn còn hạn chế do thiếu chương trình và đội ngũ giáo viên dạy nghề.
Chính sách hỗ trợ tương đối toàn diện
Dẫn số liệu thống kê về NKT tại Việt Nam, ông Tô Đức- Chánh Văn phòng Ủy ban Quốc gia về NKT Việt Nam cho biết, hiện có tới 87,27% NKT sống ở nông thôn, tỷ lệ NKT sống ở khu vực này thuộc diện nghèo và cận nghèo thường cao gấp 3 lần tỷ lệ nghèo trung bình toàn quốc. Số NKT còn trong độ tuổi lao động là 61%, trong đó 40% còn khả năng lao động. Trình độ học vấn của NKT thấp như: 41,01% NKT từ 6 tuổi trở lên không biết chữ; số có trình độ từ THCS trở lên chỉ chiếm 19,5%. Ngoài ra, có tới 93,4% NKT từ 16 tuổi trở lên không có chuyên môn; số có bằng cấp là chứng chỉ nghề trở lên chỉ chiếm 6,5%.
Hiện nay, công tác tạo việc làm cho NKT còn một số khó khăn nhất định như: Số lượng NKT được học nghề và có việc làm vẫn còn hạn chế, thiếu chương trình, đội ngũ giáo viên dạy nghề. Cùng với đó, trình độ học vấn của nhiều NKT còn thấp, cộng với tâm lý tự ti, mặc cảm của bản thân NKT và gia đình khiến cơ hội tiếp cận thông tin việc làm, nghề nghiệp của NKT còn hạn chế. Bên cạnh đó, nhiều DN không muốn tuyển dụng NKT… “Tuy nhiên, điểm sáng là chính sách hỗ trợ việc làm cho NKT ở Việt Nam đã tương đối đầy đủ, toàn diện với các quy định ưu tiên, trợ giúp NKT trong học nghề, tạo việc làm, trợ giúp các cơ sở dạy nghề cho NKT nhằm giúp họ có năng lực thực hành nghề phù hợp với khả năng lao động của mình”- ông Tô Đức chia sẻ.
Từ lâu, Đảng và Chính phủ luôn quan tâm và chỉ đạo tạo việc làm cho NKT hòa nhập xã hội. Điều này được thể hiện trong Bộ luật Lao động, Chỉ thị số 39 của Ban Bí thư, Quyết định số 1100 của Chính phủ. Chương trình trợ giúp NKT giai đoạn 2021-2030 cũng đặt ra chỉ tiêu đến năm 2030 có 300.000 NKT có nhu cầu đào tạo và đủ điều kiện được hỗ trợ đào tạo nghề, tạo việc làm. Cùng với đó, hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất thiết bị cho 6 cơ sở giáo dục nghề nghiệp chuyên biệt để đào tạo nghề nghiệp cho NKT tại 6 vùng trong cả nước và cơ sở giáo dục nghề nghiệp đào tạo nghề cho NKT.
Từ năm 2012 đến nay, Chính phủ đã bố trí ngân sách gần 10 tỷ đồng/năm để dạy nghề, tạo việc làm cho khoảng 19.000 NKT; nhiều NKT được vay vốn ưu đãi giải quyết việc làm, xóa nghèo, học nghề, được tập huấn nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh. Đặc biệt, Bộ luật Lao động 2019 đã dành một mục riêng với 3 điều quy định về chính sách của Nhà nước đối với lao động là NKT, sử dụng lao động là NKT và những hành vi bị nghiêm cấm khi sử dụng lao động là NKT…
Rà soát nhu cầu làm việc, học nghề của NKT
Kết quả Điều tra quốc gia về lao động-việc làm và Điều tra quốc gia NKT Việt Nam được Tổng cục Thống kê hoàn thành 6 vòng thu thập dữ liệu (từ tháng 7 đến tháng 12/2022) với 117.864 hộ gia đình và 7.156 NKT cho thấy, chỉ có 31,7% NKT trung bình và 7,8% NKT nặng có việc làm. Kết quả điều tra cũng chỉ ra, tỷ lệ NKT tự kinh doanh cao; có tới 66,6% NKT trung bình làm nghề tự do, đối với NKT nặng là 52,6%. Khi có việc làm, NKT làm việc ít thời gian hơn so với những người không khuyết tật; NKT trung bình làm việc 34,05 giờ mỗi tuần và NKT nặng là 31,22 giờ mỗi tuần.
Đáng chú ý, khi NKT tìm kiếm được việc làm thì cũng phải đối mặt với rào cản là thái độ của chủ SDLĐ và 23,64% NLĐ không sẵn lòng giúp đỡ họ khi làm việc. Những NKT trẻ tuổi gặp phải các rào cản trong công việc cao hơn nhiều so với NKT lớn tuổi. Nhóm 15-29 tuổi cao gần gấp đôi so với dân số chung và cao hơn 3 lần so với nhóm tuổi 60 trở lên. Một rào cản quan trọng nữa mà NKT gặp phải đó là sự hỗ trợ của gia đình, khi 87,2% NKT nữ và 79,8% NKT nam cho biết gia đình không ủng hộ nỗ lực làm việc của họ.
Để NKT và không khuyết tật bình đẳng về cơ hội việc làm, kết quả điều tra cho rằng, cần gỡ bỏ các rào cản về môi trường như hoàn thiện giáo dục và đào tạo hòa nhập. Trợ cấp tiền lương là những khoản trợ cấp tạm thời được trả cho chủ SDLĐ khi tuyển chọn NLĐ để bù đắp những chi phí phát sinh liên quan đến điều chỉnh nơi làm việc và bù đắp rủi ro có thể gặp phải khi thuê NKT làm việc. Đặc biệt, để xóa bỏ rào cản về việc NKT không nhận được sự hỗ trợ từ gia đình, cần thực hiện chiến dịch nâng cao nhận thức nhằm khẳng định quyền của NKT và thay đổi nhận thức về mong muốn và khả năng của NKT.
Trước thực tế mới có hơn 3 triệu NKT được xác nhận cấp giấy chứng nhận, ông Tô Đức cho biết, Bộ LĐ-TB&XH và Ủy ban Quốc gia về NKT Việt Nam sẽ tăng cường hướng dẫn cho các địa phương thực hiện việc này. Để NKT trong độ tuổi lao động có việc làm, các địa phương cũng cần hướng dẫn Hội NKT rà soát nhu cầu làm việc, học nghề của NKT để phối hợp với các sở, ngành đánh giá, lập kế hoạch và trình cấp trên bố trí nguồn ngân sách triển khai. Đồng thời, Hội NKT địa phương cũng nên nghĩ ra những giải pháp hỗ trợ NKT khởi sự kinh doanh, tạo sinh kế.
Ngoài ra, Bộ Xây dựng và Bộ GTVT cần có văn bản yêu cầu các DN khi xây dựng công trình công cộng, giao thông, các tuyến điểm đỗ xe có tiếp cận với NKT. Đồng thời, Ủy ban Quốc gia về NKT Việt Nam sẽ hoàn thiện các cơ chế, chính sách về tạo việc làm cho NKT; tới đây sẽ hình thành bộ chỉ số quốc gia giám sát về an sinh xã hội để có cơ sở đánh giá kết quả đầu ra trong đảm bảo quyền lợi của NKT.
Nguyệt Hà