Mỗi năm, cứ đến dịp kỷ niệm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ý thức và lòng tự hào dân tộc trong mỗi người dân Việt Nam trào dâng. Nhân dịp này, GS-TS.Mạch Quang Thắng- Giảng viên cao cấp, nguyên Vụ trưởng Vụ Quản lý khoa học (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) đã chia sẻ với phóng viên Tạp chí BHXH về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng xây dựng đất nước hùng cường.
* PV: Nhìn lại 47 năm đã qua, kể từ ngày thống nhất đất nước năm 1975, giáo sư nhận định như thế nào về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển của dân tộc ta?
- GS-TS.Mạch Quang Thắng:
Từ ngày 30/4/1975, dân tộc Việt Nam bước vào một thời kỳ mới: Cả nước cùng quá độ lên CNXH, với Chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khát vọng của dân tộc, kể từ đó, đều hướng vào xây dựng một đất nước Việt Nam hùng cường XHCN. Khát vọng đó ngày càng cháy bỏng hơn khi thế giới bước vào toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Khát vọng phát triển đã thể hiện từ lâu trong quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là “ham muốn tột bậc” cho nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Cao hơn, đó là khát vọng về một đất nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới như lời mong muốn cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong Di chúc, đó là khát vọng “Độc lập- Tự do- Hạnh phúc”; là khát vọng sánh vai với các cường quốc năm châu.
Bao giờ cũng vậy, dân tộc muốn cường thịnh, thì phải có ý chí tự lực tự cường. Nếu khát vọng chỉ thể hiện trên giấy với những lời lẽ hoa mỹ, những câu khẩu hiệu rỗng tuếch, thì khát vọng ấy là khát vọng suông; có khi nó còn làm hại cho tư duy và hành động của nhiều thế hệ người Việt Nam thời hậu chiến. Đã 47 năm trôi qua, có lúc sự tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam cũng đầy trắc trở, nhưng với công cuộc đổi mới, con người Việt Nam đã năng động hơn, tự tin hơn với đường đi nước bước, hợp lý hơn để phát triển.
* Xét trong bối cảnh quốc tế hiện nay cũng như mối quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, theo giáo sư, ý chí tự lực, tự cường của đất nước ta cần phải tiếp tục được phát huy như thế nào?
- Ý chí tự lực, tự cường của đất nước ta hiện nay được đặt trong bối cảnh toàn cầu hóa, hợp tác quốc tế mạnh mẽ. Theo đó, đất nước phải tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa; Việt Nam là bạn của tất cả các nước, là đối tác đáng tin cậy, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Nay, chúng ta cần chú ý thêm một số điểm, đó là: Tự lực, tự cường không có nghĩa là tự thu hẹp, là tự co mình lại trong thế giới toàn cầu hóa. Nếu như vậy là đi ngược lại xu thế phát triển. Do vậy, phải quảng giao hơn nữa theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tứ hải giai huynh đệ”, nghĩa là bốn biển đều là anh em. Ý chí tự lực tự cường đi đôi với bảo đảm các quyền dân tộc cơ bản: Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không để một tấc đất rơi vào tay kẻ khác. Còn hợp tác quốc tế để phát triển bền vững là phải trên cơ sở nhận và cho, để biến ngoại lực thành nội lực; tăng cường năng lực cạnh tranh để phát triển.
* Dịch bệnh COVID-19 khiến đời sống kinh tế-xã hội bị ảnh hưởng nặng nề; tuy nhiên qua đó cũng giúp khơi dậy tinh thần đoàn kết, sẻ chia giữa người với người. Để đất nước phát triển phồn vinh, người dân được sống trong hạnh phúc, chúng ta cần phải làm gì?
- Đại dịch COVID-19 như một phép thử, trong đó cả cái hay và cả cái dở. Cũng từ đây, có thể thấy, từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, có rất nhiều giải pháp để cho đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Theo đó, Đảng cầm quyền phải thực sự tiến hành tất cả các công việc nhằm xứng đáng là cầm quyền, giữ vững và phát huy tư cách cầm quyền, chứ không phải bằng các biện pháp hành chính, mệnh lệnh. Muốn xứng đáng, các tổ chức của hệ thống chính trị và cán bộ, đảng viên phải có “2T”, nghĩa là phải vừa có tâm và phải có tầm. Họ phải gương mẫu, nhất là ở cấp lãnh đạo chủ chốt.
Bên cạnh đó, cần phải xem lại toàn bộ công tác cán bộ để đổi mới hơn nữa, vì công tác cán bộ những năm qua ở vào trạng thái “có vấn đề”. Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng có câu “công tác cán bộ là then chốt của then chốt”; mọi thắng lợi hay tệ hại là từ công tác này mà ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết rất rõ trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (năm 1947): Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém.
Tiếp đến là tìm mọi cách tăng cường hơn nữa chất lượng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong giải pháp này, rất cần tăng thêm năng lực lắng nghe từ phía người lãnh đạo. Đặc điểm của khối đại đoàn kết hiện nay khác trước, một vấn đề trong xã hội không phải ai cũng nghĩ giống nhau. Do đó, vấn đề là ở chỗ tôn trọng nhau, lắng nghe để tìm ra chân lý.
* Giá trị cũng như sự đảm bảo an sinh xã hội cho mỗi người dân- xét trong mối quan hệ với sự phồn vinh của đất nước, nên được hiểu như thế nào, thưa giáo sư?
- Dù đất nước chưa thực sự phồn vinh thì vẫn phải ưu tiên bảo đảm an sinh xã hội. An sinh xã hội cũng là một trong những biện pháp quan trọng làm cho đất nước phồn vinh. An dân thì thời nào cũng cần.
Có câu chuyện lịch sử rằng, năm 1300, vua Trần Anh Tông tới thăm Trần Quốc Tuấn, người đã từng thống lĩnh quân đội nhà Trần đánh thắng quân xâm lược Nguyên-Mông thế kỷ XIII, lúc này đang nghỉ dưỡng già, ốm yếu sau bao nhiêu lần đích thân cầm quân ra trận. Trần Quốc Tuấn có lúc bệnh nặng, phải nằm trên giường tiếp vua tại thái ấp Vạn Kiếp (nay thuộc xã Hưng Đạo, TP.Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Vua Trần Anh Tông hỏi rằng: “Nếu có điều chẳng may mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược, thì kế sách như thế nào?”. Trần Quốc Tuấn trả lời: “Vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị thua. Phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”.
Sức dân là cực kỳ quan trọng. Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi thế kỷ XV cũng từng nói: “Phúc chu thủy tín dân do thủy”, nghĩa là lật thuyền mới biết sức dân như nước. Xem thế mới càng thấm thía an sinh xã hội quan trọng như thế nào.
* Trân trọng cảm ơn giáo sư!
Minh Đức (Thực hiện)