Những vụ trẻ vị thành niên tự kết thúc cuộc sống trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến dai dẳng, ảnh hưởng đến việc học tập sinh hoạt của các em, có nhiều nguyên nhân. Đáng chú ý, trong đó các dấu hiệu trầm cảm được nhiều người nhắc đến.
Nguyên nhân chính xác gây các rối loạn trầm cảm thường không rõ ràng, nhưng có yếu tố di truyền và môi trường sống- đây là điều cần phải quan tâm. Trầm cảm thường gây ra các rối loạn nhận thức, tâm thần vận động và các dạng rối loạn chức năng khác như: Tập trung kém, mệt mỏi, mất ham muốn tình dục, mất hứng thú trong hầu hết các hoạt động trước đây, rối loạn giấc ngủ…
Trầm cảm đặc biệt gây ra tâm trạng chán nản, nhất là ở những người có tâm thần kinh không ổn định, dễ bị ảnh hưởng bởi các áp lực trong cuộc sống, nhất là ở trẻ mới lớn, phụ nữ sau sinh, người sống cô đơn. Những người bị rối loạn trầm cảm thường có ý nghĩ tự tử và có thể tìm cách tự sát. Các triệu chứng hoặc rối loạn tâm thần khác như các cơn lo âu và hoảng sợ thường cùng tồn tại, đôi khi làm phức tạp thêm việc chẩn đoán và điều trị. Bệnh nhân với tất cả các dạng trầm cảm có nhiều khả năng lạm dụng rượu hoặc các loại thuốc kích thích để cố gắng tự điều trị chứng rối loạn giấc ngủ hoặc các triệu chứng lo âu.
Các dấu hiệu dễ nhận biết nhất là người bị trầm cảm thường đau khổ, lo lắng. Bệnh nhân cảm thấy căng thẳng và không thể nghỉ ngơi bình thường. Họ rất khó tập trung vào công việc, học tập, bởi vì sự lo lắng hoặc sợ rằng điều khủng khiếp có thể xảy ra, có thể mất quyền kiểm soát bản thân… Trạng thái u sầu khiến bệnh nhân mất hết niềm vui trong các hoạt động thường nhật trước đây. Họ có thể chán nản và tuyệt vọng, cảm thấy tội lỗi quá mức, thường thức dậy sớm, ủ rũ một mình, chậm chạp tâm thần vận động, chán ăn đáng kể hoặc giảm cân.
Thuốc được sử dụng để điều trị trầm cảm khá đa dạng về chủng loại và có nhiều tác dụng phụ. Hiện nay hay dùng các nhóm thuốc sau:
Các chất ức chế tái hấp thu Serotonin có chọn lọc: bao gồm Citalopram, Escitalopram, Fluoxetin, Fluvoxamin, Paroxetin, Sertralin và Vilazodon.
Thuốc điều hòa Serotonin bao gồm Trazodone, Mirtazapine có tác dụng chống trầm cảm và giải lo âu, nhưng không gây rối loạn chức năng tình dục.
Nhóm ức chế tái hấp thu Serotonin-norepinephrin bao gồm Desvenlafaxin, Duloxetin, Levomilnacipran, Venlafaxin, Vortioxetin… Tuy nhiên, độc tính của chúng có thể gây buồn nôn, nhất là trong 2 tuần đầu điều trị. Nhóm này cũng dễ gây ra kích thích, lo lắng, buồn nôn nếu thuốc ngừng đột ngột.
Thuốc ức chế tái hấp thu Norepinephrin-dopamin là Bupropion không có tác dụng phụ về tình dục và ít tương tác với thuốc phối hợp.
Thuốc chống trầm cảm dị vòng- nhóm thuốc này một thời được sử dụng chính trong điều trị, bao gồm các thuốc chống trầm cảm ba vòng (Amin bậc 3 Amitriptylin và Imipramin và các chất chuyển hóa Amin bậc 2 của chúng là Nortriptylin và Desipramin).
Các chất ức chế Monoamin Oxidase như Phenelzin, Tranylcypromin, Isocarboxazid.
Thuốc chống trầm cảm Melatonin: Agomelatin ít có tác dụng phụ hơn hầu hết các thuốc chống trầm cảm và không gây buồn ngủ ban ngày, mất ngủ, tăng cân, rối loạn chức năng tình dục. Nó không gây nghiện và không gây triệu chứng cai nghiện. Nó có thể gây đau đầu, buồn nôn và tiêu chảy. Nó cũng có thể làm tăng men gan và các men này phải được đo trước khi bắt đầu điều trị và sau mỗi 6 tuần, không dùng cho bệnh nhân suy gan.
Thuốc giống Ketamine- thay vì gây mê, liều Ketamine thường tạo ra sự giải quyết nhanh chóng các triệu chứng trầm cảm ở bệnh nhân có rối loạn trầm cảm chủ yếu.
Nguy cơ tự tử khi đang điều trị bằng các thuốc chống trầm cảm cần phải được quan tâm nhất trong thời gian điều trị. Bệnh nhân và người thân của họ nên được cảnh báo rằng một vài bệnh nhân có thể có vẻ kích động, chán nản và lo lắng trong vòng một tuần sau khi bắt đầu dùng thuốc chống trầm cảm hoặc tăng liều. Người nhà nên báo ngay với thầy thuốc các triệu chứng xấu đi khi điều trị. Tình trạng này nên được theo dõi chặt chẽ, bởi vì một số bệnh nhân, đặc biệt là thanh thiếu niên dễ tự sát hơn nếu kích động, trầm cảm và lo âu nặng hơn nếu không bị phát hiện và điều trị nhanh chóng.
Khi điều trị, hầu hết các thuốc chống trầm cảm nên giảm liều khoảng 25%/tuần thay vì ngừng đột ngột. Việc ngưng thuốc đột ngột có thể dẫn đến hội chứng ngưng thuốc như buồn nôn, ớn lạnh, đau cơ, chóng mặt, lo lắng, dễ cáu, mất ngủ, mệt mỏi…
Trầm cảm là một bệnh lý về tâm thần, nhưng không nên quá trầm trọng, lo lắng về bệnh thái quá. Bệnh nhân và người thân có thể lo lắng hoặc ngại ngần về việc có rối loạn tâm thần mà trong nhân dân thường gọi là “điên, ngộ”. Trầm cảm là một rối loạn sinh học và cần điều trị bằng thuốc kết hợp với tư vấn tâm lý. Bệnh nhân và người thân cần được trấn an rằng, trầm cảm không phải phán ánh một tính cách xấu xa như lười biếng, yếu đuối, thụ động...
Bệnh phục hồi sẽ trải qua những diễn biến tâm lý phức tạp, cồn giúp họ nhận ra vô vọng chỉ là quan điểm cá nhân và cần tuân thủ điều trị. Khuyến khích bệnh nhân tăng dần các hoạt động đơn giản như đi bộ, tập thể dục thường xuyên và tương tác xã hội với cộng đồng. Đồng thời, cần tránh thái độ xa lánh, hắt hủi, bỏ rơi… dễ đẩy bệnh nhân vào các trạng thái tiêu cực trầm cảm nặng hơn, gây hậu quả đáng tiếc.
ThS.Lê Quốc Thịnh