Ngày 21/10, tại Hà Nội, BHXH Việt Nam phối hợp với Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN (USABC) tổ chức Hội thảo quốc tế Đánh giá công nghệ y tế trong lĩnh vực trang thiết bị, vật tư y tế và định hướng tiếp cận dịch vụ y tế- vật tư y tế BHYT bền vững. Ông Nguyễn Đức Hòa- Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam và ông Vũ Tú Thành- Phó Giám đốc điều hành khu vực ASEAN của USABC chủ trì Hội thảo.
Hội thảo có sự tham dự của đại diện các đơn vị nghiệp vụ thuộc BHXH Việt Nam, các công ty thành viên của USABC; cùng các chuyên gia của Viện Chiến lược và Chính sách y tế (Bộ Y tế) và các cơ sở y tế... Đây là một hoạt động trong chương trình hợp tác trong lĩnh vực BHYT giữa BHXH Việt Nam và USABC giai đoạn 2022-2024, cụ thể hóa nội dung của Bản ghi nhớ hợp tác giữa BHXH Việt Nam và USABC trong lĩnh vực thực hiện BHYT (ký kết tại buổi làm việc của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam với USABC ngày 9/3/2022).
Phó Tổng Giám đốc Nguyễn Đức Hòa phát biểu tại Hội thảo
“Gánh nặng” lên quỹ BHYT ngày càng lớn
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Nguyễn Đức Hòa nhấn mạnh: “Đánh giá công nghệ y tế và đánh giá tác động ngân sách trong lĩnh vực thuốc, vật tư y tế, dịch vụ y tế có vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin để xây dựng chính sách BHYT, nhất là trong việc xác định danh mục, cơ chế thanh toán phù hợp và hiệu quả; bước đầu đã được ứng dụng trong xây dựng danh mục thuốc BHYT theo Thông tư số 30/2018/TT-BYT; ứng dụng trong đàm phán giá thuốc trong năm 2021-2022”.
Phó Tổng Giám đốc Nguyễn Đức Hòa phân tích thêm, hiện nay, quyền lợi của người bệnh BHYT ngày càng được mở rộng, với nhiều loại thuốc mới, dịch vụ kỹ thuật mới và vật tư y tế chất lượng, đem lại nhiều cơ hội trong khám, điều trị của người bệnh BHYT. Bên cạnh đó, với sự phát triển của công nghệ y tế, các trang thiết bị, thuốc, vật tư y tế ngày càng được nghiên cứu, phát minh và cải tiến với chất lượng cao nhưng giá thành chi phí cũng rất cao, tạo thách thức không nhỏ cho quỹ BHYT trong việc đảm bảo khả năng chi trả, trong khi nguồn lực chi cho y tế và nguồn quỹ BHYT có giới hạn. Đơn cử, các loại khớp gối có giá dao động từ 35,182 triệu đồng tới 400 triệu đồng; khớp háng bán phần có giá dao động từ 30 triệu đồng tới 119 triệu đồng; nhiều loại thuốc chi phí điều trị cao, giá thành vài chục triệu đồng/đơn vị thuốc hoặc chi phí điều trị cho một người bệnh lên tới hàng trăm triệu đồng...
Chia sẻ tác động chung của tổng chi phí KCB BHYT lên quỹ BHYT ngày càng “căng", Phó Tổng Giám đốc Nguyễn Đức Hòa khẳng định: “Để chính sách BHYT phát triển bền vững, cần phải xác định danh mục, phạm vi thanh toán thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật hiệu quả, an toàn, đảm bảo chất lượng trong điều trị, phù hợp với khả năng chi trả của quỹ BHYT. Việc mua sắm hiệu quả và lựa chọn sử dụng cho người bệnh hợp lý, hiệu quả cần được quan tâm”.
Chung nhận định này, ông Vũ Tú Thành- Phó Giám đốc điều hành Khu vực ASEAN của USABC cũng cho rằng, y tế hiện là một trong 3 nội dung ưu tiên chính sách mà USABC đang hỗ trợ Chính phủ Việt Nam; đồng thời cũng là lĩnh vực mà Việt Nam có nhu cầu cấp bách đổi mới, có các cách tiếp cận mới, tạo ra đột phá... “Rất mừng là, một trong các đối tác của chúng tôi là BHXH Việt Nam thời gian qua đã luôn đi theo hướng này, có những cải cách cởi mở với tinh thần cầu thị cao, sẵn sàng học tập kinh nghiệm quốc tế và khu vực...”- ông Vũ Tú Thành đánh giá.
Các đại biểu tham dự Hội thảo
Đại diện USABC cũng chia sẻ, Hội thảo này là sự kiện đầu tiên đánh giá triển khai kế hoạch hành động giai đoạn 2022-2024 giữa BHXH Việt Nam và USABC. Theo đó, sau này sẽ còn nhiều hoạt động hợp tác giữa hai bên liên quan đến các nội dung về phát triển hệ thống y tế, chính sách BHYT, chính sách về quản lý dược phẩm, ứng dụng CNTT và chuyển đổi số... nhằm tạo bước đột phát trong thực hiện chính sách BHYT tại Việt Nam.
Cách nào tiếp cận dịch vụ y tế- vật tư y tế BHYT bền vững?
Chia sẻ về thực trạng chi trả thuốc, vật tư y tế theo chế độ BHYT, bà Nguyễn Thị Hồng Vân- Phó Trưởng ban Thực hiện chính sách BHYT (BHXH Việt Nam) thông tin: Từ năm 2017, quỹ BHYT bắt đầu xuất hiện dấu hiệu “âm” trong năm, khi số chi KCB BHYT cao hơn hơn số thu; và năm 2022, số “âm” đã lên tới trên 7.575 tỷ đồng. Cũng theo bà Vân, trong 2 năm 2020-2021, số thu BHYT cao hơn số chi, nhưng lại được đặt trong bối cảnh ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, khiến người dân chỉ đến cơ sở y tế khi thật sự cần thiết. Tuy nhiên, bước sang năm 2022, khi dịch Covid-19 cơ bản được khống chế, Việt Nam đang đối diện với tình trạng chi phí KCB BHYT “bùng nổ” trở lại quỹ đạo trước đây...
Bà Nguyễn Thị Hồng Vân chia sẻ thực trạng chi trả thuốc, vật tư y tế theo chế độ BHYT
Đáng chú ý, theo bà Nguyễn Thị Hồng Vân, trong cơ cấu chi phí KCB, tiền thuốc từng chiếm trên 60% tổng chi; chỉ sau khi thực hiện lộ trình tính đúng, tính đủ chi phí KCB, chi phí thuốc mới giảm về tỷ lệ trong cơ cấu chi phí, nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất. Đơn cử: Năm 2020-2021, tiền thuốc chiếm 34,8% trong tổng chi phí KCB; trong những tháng đầu năm 2022 chiếm 34,2%...
Đánh giá của BHXH Việt Nam cũng cho thấy, thách thức đặt ra trong quản lý quỹ BHYT hiện nay là sự mất cân đối quỹ ngày càng tăng, khi nguồn thu quỹ hạn chế (mức đóng chưa điều chỉnh phù hợp với thực tế). Trong khi đó, gánh nặng lên quỹ BHYT ngày càng gia tăng bởi nhiều yếu tố như: Tình trạng già hóa dân số, mô hình bệnh tật thay đổi, nhu cầu KCB tăng, gia tăng bệnh nặng chi phí cao, xuất hiện nhiều thuốc và vật tư y tế, phương pháp điều trị mới chi phí cao, giá thuốc và vật tư y tế biến động, chênh lệch và sự lựa chọn sử dụng của cơ sỏ y tế...
Do đó, bài toán đặt ra cho quản lý chi BHYT là chi thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật phải đảm bảo đúng, hợp lý và hiệu quả. “Định hướng tiếp cận thuốc, vật tư y tế và dịch vụ y tế hiện nay là phải xây dựng được danh mục thuốc, vật tư y tế BHYT thông minh, mua sắm hiệu quả và lựa chọn sử dụng hiệu quả cho người bệnh”- bà Nguyễn Thị Hồng Vân nhấn mạnh. Cụ thể, các danh mục và mua sắm có hiệu quả, an toàn và phù hợp với khả năng chi trả của quỹ BHYT thông qua sử dụng công cụ HTA và đánh giá tác động ngân sách; xây dựng danh mục thuốc, vật tư y tế do quỹ BHYT chi trả có xác định rõ các điều kiện thanh toán, tỷ lệ thanh toán với một số thuốc biệt dược gốc, mức thanh toán đối với vật tư y tế có nhiều thông số, tiêu chí kỹ thuật khác nhau, có dải giá rộng. Cùng với đó, thực hiện mua sắm hiệu quả thông qua nhiều phương thức như đàm phán giá (sử dụng HTA), đấu thầu tập trung quốc gia, địa phương và tại cơ sở tế với các phương pháp đánh giá phù hợp...
Mở rộng hiệu quả ứng dụng HTA tại Việt Nam
Chia sẻ về thực tiễn ứng dụng HTA tại Việt Nam, bà Nguyễn Khánh Phương- Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách y tế (Bộ Y tế) nhận định, ứng dụng HTA trong xây dựng chính sách y tế tại Việt Nam đã cho thấy nhiều chuyển biến khả quan, đáng chú ý là việc nâng cao nhận thức và nhu cầu sử dụng bằng chứng HTA, cũng như kết nối với hoạt động xây dựng chính sách. Ứng dụng bằng chứng HTA được sử dụng khi Bộ Y tế ban hành Quyết định số 5315/QĐ-BYT (năm 2018) về nguyên tắc, tiêu chí bổ sung thuốc mới vào danh mục thuốc BHYT.
Bà Nguyễn Khánh Phương chia sẻ về thực tiễn ứng dụng HTA tại Việt Nam
Quyết định này yêu cầu bằng chứng về tác động ngân sách là một tiêu chí chung, bắt buộc đối với thuốc mới; yêu cầu bằng chứng về chi phí-hiệu quả, hiệu quả lâm sàng, chi phí điều trị. Tiếp đến, trong Bộ tiêu chí đàm phán giá thuốc biệt dược gốc, yêu cầu thuốc đàm phán giá có nghiên cứu chứng minh chi phí hiệu quả tại VN với ngưỡng chi trả 1-3 GDP và đã được công bố trên các báo, tạp chí, tài liệu được tính điểm- bước đầu sử dụng kết quả nghiên cứu HTA...
Kết quả nghiên cứu HTA cũng bước đầu được sử dụng trong xây dựng và điều chỉnh chính sách chi trả BHYT, đàm phán giá thuốc như xây dựng chính sách chi trả BHYT. Trong Thông tư số 30/2018/TT-BYT ban hành danh mục thuốc được BHYT thanh toán, Bộ Y tế yêu cầu thành lập tiểu ban chuyên môn về kinh tế dược. Thực tế cho thấy, kết quả của nghiên cứu đánh giá công nghệ y tế đã được sử dụng và đóng góp vào thành công của công tác đàm phán giá thuốc năm 2018, với mức chi phí được tiết kiệm từ việc giảm giá 4 thuốc ước tính hơn 500 tỷ đồng...
Bên cạnh đó, các hoạt động HTA cũng đã mở rộng sự tham gia của các bên, không chỉ có sự tham gia của Bộ Y tế, BHXH Việt Nam, các chuyên gia lâm sàng, mà còn thu hút các cơ sở y tế, chuyên gia quốc tế, các công ty đa quốc gia và các đơn vị nghiên cứu. Việt Nam cũng đã thành lập mạng lưới HTA; đẩy mạnh các hoạt động hợp tác, tham vấn và kết nối; nâng cao năng lực thực hiện HTA và bước đầu thiết lập cơ sở hạ tầng cho HTA.
Theo bà Nguyễn Khánh Phương, nhu cầu thực tiễn đối với HTA trong xây dựng chính sách hướng tới đáp ứng các mục tiêu chính: Nâng cao chất lượng y tế; mua sắm thuốc, thiết bị y tế; điều chỉnh phạm vi danh mục thuốc và dịch vụ y tế; lập kế hoạch, triển khai dịch vụ, chương trình mới. Các mục tiêu này cần được thực hiệp thông qua các thông tin thực tế về sử dụng phù hợp thuốc, can thiệp y khoa; điều chỉnh độ bao phủ dựa trên bằng chứng; so sánh hiệu quả các phương án can thiệp...
Ông Vũ Tú Thành- đại diện USABC phát biểu tại Hội thảo
Tại Hội thảo, các chuyên gia quốc tế cũng chia sẻ các nghiên cứu, kinh nghiệm về tiếp cận và ứng dụng HTA trong việc xây dựng các chính sách y tế thành công trên thế giới. Các chuyên gia của Vista Health Pte Ltd như ông Joe Caputo- Người sáng lập kiêm Giám đốc điều hành Vista Health Pte Ltd và ông Nathaniel Henry- Giám đốc cấp cao Vista Health Pte Ltd, đã giới thiệu HTA trong lĩnh vực trang thiết bị y tế và các phương pháp HTA. Bà Sarah Chan- Quản lý cấp cao tiếp cận thị trường Đông Nam Á-Ấn Độ và bà Lee Youn Youn- Quản lý cấp cao các vấn đề pháp lý khu vực Đông Nam Á của Công ty Edwards Lifesciences cũng chia sẻ kinh nghiệm thiết lập quy trình HTA với sự tham gia của các bên liên quan; các vấn đề pháp lý ứng dụng HTA.
Hay như TS.Viva Yan Ma- Giám đốc Chiến lược-Quan hệ công chúng Châu Á của Becton Dickinson, cựu Chủ tịch ISPOR Singapore, cũng chia sẻ các nghiên cứu điển hình để chứng minh các phương pháp HTA và quy trình ra quyết định chi trả bảo hiểm tại một số quốc gia trên thế giới đối với một số sản phẩm như: Stent, cấy ghép chỉnh hình, bóng phủ thuốc, cổng truyền hóa chất trong điều trị ung thư, các sản phẩm truyền tĩnh mạch an toàn, sinh thiết hỗ trợ chân không và chẩn đoán vi sinh cho nhiễm trùng, van động mạch chủ...
Những gợi ý về các mô hình quản lý thiết bị y tế quốc tế và khu vực ASEAN có hiệu quả sẽ là kinh nghiệm quý cho ngành BHXH Việt Nam và ngành Y tế làm cơ sở xác định định hướng tiếp cận dịch vụ y tế, vật tư y tế để đảm bảo chính sách BHYT bền vững.
Thái An