Tốc độ phục hồi của thị trường lao động quý IV/2022 đang chậm dần. Tuy nhiên, tính chung cả năm, thị trường lao động Việt Nam vẫn có nhiều điểm sáng như lực lượng lao động, số người có việc làm và thu nhập đều tăng lên, trong khi tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ thiếu việc làm và tỷ lệ lao động phi chính thức đều có xu hướng giảm...
Theo Tổng cục Thống kê, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2022 đạt 51,7 triệu người, cao hơn 1,1 triệu người so với năm trước. Lực lượng lao động ở khu vực thành thị là 19,1 triệu người, chiếm 37,1 điểm phần trăm; lực lượng lao động nữ đạt 24,2 triệu người, chiếm 46,8% lực lượng lao động của cả nước.
Nhiều chỉ số quan trọng của thị trường lao động cho thấy những tín hiệu lạc quan. Cụ thể, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động năm 2022 là 68,5%, tăng 0,8 điểm phần trăm so với năm trước. Lực lượng lao động đã qua đào tạo từ trình độ “sơ cấp” trở lên năm 2022 ước tính là 13,5 triệu người, chiếm 26,2%, tăng 0,1 điểm phần trăm so với năm trước.
Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm năm 2022 là 50,6 triệu người, tăng 1,5 triệu người so với năm 2021. Thiếu việc làm trong độ tuổi năm 2022 là khoảng 991,5 nghìn người, giảm 454,5 nghìn người so với năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi năm 2022 là 2,21%, giảm 0,89 điểm phần trăm so với năm trước.
Báo cáo của Tổng cục Thống kê cũng chỉ ra, trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm, lạm phát cao, nhiều đơn hàng bị cắt giảm, đặc biệt là ở các ngành dệt may, da giày, chế biến gỗ, điện tử vào thời điểm cuối năm đang khiến đà phục hồi của thị trường lao động có xu hướng chậm lại. Cụ thể, số người thiếu việc làm trong độ tuổi quý IV/2022 khoảng 898,2 nghìn người, tăng 26,5 nghìn người so với quý trước và giảm 566 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý này là 1,98%, tăng 0,06 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 1,39 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị thấp hơn so với khu vực nông thôn (tương ứng là 1,57% và 2,22%).
"Như vậy, mặc dù tình hình thiếu việc làm của NLĐ giảm so với cùng kỳ năm trước; tuy nhiên khác với xu hướng các năm trước đây khi chưa chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19, quý IV là thời điểm các DN và NLĐ triển khai tăng ca, làm cho tỷ lệ thiếu việc làm của quý IV thường có xu hướng thấp nhất trong năm, thì năm nay, tỷ lệ ở quý này bị đẩy cao hơn so với quý trước"- Tổng cục Thống kê đánh giá.
Thêm một điểm sáng trong thị trường lao động năm 2022 là mức thu nhập bình quân của NLĐ có sự tăng trưởng đáng kể, đạt 6,7 triệu đồng/người/tháng, tăng 927 nghìn đồng so với năm trước và tăng 759 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 2019. Thu nhập bình quân tháng của lao động nam là 7,6 triệu đồng, tăng 950 nghìn đồng so với năm trước và tăng 830 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 2019; thu nhập bình quân tháng của lao động nữ là 5,6 triệu đồng, tăng 914 nghìn đồng so với năm trước và tăng 709 nghìn đồng so với cùng năm 2019.
Năm 2022, chứng kiến sự tăng trưởng ở hầu hết các ngành kinh tế, thu nhập của NLĐ tăng ở cả 3 khu vực kinh tế so với năm 2021, trong đó: Khu vực công nghiệp và xây dựng ghi nhận mức tăng trưởng thu nhập cao nhất. Thu nhập của lao động làm việc trong khu vực công nghiệp và xây dựng tăng mạnh nhất, tăng 17,6% (tương ứng tăng 1,1 triệu đồng/người/tháng); lao động làm việc trong ngành dịch vụ tăng 15,4% (tương ứng tăng 1 triệu đồng/người/tháng). Thu nhập bình quân của lao động làm việc trong ngành nông- lâm- thủy sản tăng 9,8%, tương ứng tăng 448 nghìn đồng.
Thu nhập bình quân của lao động làm công hưởng lương năm 2022 là 7,5 triệu đồng, tăng 15,1% so với năm trước, tương ứng tăng 992 nghìn đồng. So với cùng kỳ năm 2019, khi Covid-19 chưa xuất hiện, thu nhập của lao động làm công hưởng lương tăng 12,7%, tương ứng tăng khoảng 847 nghìn đồng. Lao động nam làm công hưởng lương có thu nhập bình quân là 8 triệu đồng, cao hơn 1,14 lần thu nhập bình quân của lao động nữ (7 triệu đồng). Thu nhập bình quân của lao động làm công hưởng lương làm việc ở khu vực thành thị cao hơn 1,23 lần thu nhập bình quân của lao động làm việc ở khu vực nông thôn, tương ứng 8,4 triệu đồng so với 6,9 triệu đồng.
Thái An